Tin tức
on Thursday 16-09-2021 9:23pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Chuyển phôi đông lạnh (FET) ngày càng được sử dụng phổ biến vì những hiệu quả mà kỹ thuật này mang lại cho bệnh nhân điều trị hỗ trợ sinh sản. Số lượng chu kỳ ICSI/IVF thực hiện đông lạnh toàn bộ phôi thay vì chuyển phôi tươi chiếm tỉ lệ ngày càng cao. Tuy nhiên, những báo cáo về kết cục chu sinh trong chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy FET có tương quan với tỉ lệ xuất huyết trước sinh, tỉ lệ sinh non, thai ngoài tử cung và tỉ lệ trẻ nhẹ cân thấp hơn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác lại tho thấy FET có tương quan với việc tăng tỉ lệ biến chứng bong nhau non, tỉ lệ trẻ nặng cân hơn tuổi thai… Do đó cho đến nay, tác động của FET lên kết quả chu sinh vẫn cần có thêm nhiều nghiên cứu. Hiện nay, thời điểm FET tối ưu vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời chính xác. Trong thực hành lâm sàng hiện nay có 2 thời điểm chuyển phôi đông lạnh thường được bác sĩ lựa chọn đó là thực hiện FET trong chu kỳ kinh liền ngay sau khi chọc hút (chuyển phôi ngay lập tức) hoặc chuyển phôi sau 1 chu kỳ kinh tính từ khi chọc hút (chuyển phôi muộn). Một số nghiên cứu cho thấy không nên trì hoãn FET sau khi chuyển phôi tươi thất bại trong khi một số nghiên cứu khác báo cáo rằng nên trì hoãn FET sau khi chuyển phôi tươi thất bại, ít nhất là sau 1 chu kỳ kinh nguyệt. Khi đánh giá trên phương diện quan điểm của bệnh nhân chuyển phôi tươi thất bại, các tác giả thấy rằng bệnh nhân có xu hướng thực hiện FET ngay lập tức để có thai càng sớm càng tốt. Việc trì hoãn được xem như phương pháp ít thân thiện với bệnh nhân vì có thể làm tăng căng thẳng và lo lắng cho bệnh nhân khi điều trị IVF. Với những kết quả còn gây tranh cãi như vậy, Jing‐Yan Song và cộng sự (2021) đã thực hiện nghiên cứu này nhằm cung cấp thêm chứng cứ y văn về tỉ lệ thai khi chuyển phôi đông lạnh ngay lặp tức với chuyển phôi đông lạnh muộn sau chu kỳ chuyển phôi tươi không thành công.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, ngẫu nhiên, có nhóm chứng thực hiện trên 732 bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh chất lượng tốt sau khi thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi, từ tháng 5/2020 đến tháng 7/2021. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: FET tức thì (nhóm 1, n = 366 bệnh nhân) và FET trì hoãn (nhóm 2, n = 366 bệnh nhân). Tiêu chuẩn nhận của nghiên cứu là những bệnh nhân từ 21- 43 tuổi, kích thích buồng trứng bằng phác đồ có kiểm soát (COS), còn ít nhất 1 phôi đông lạnh và chu kỳ FET là chu kỳ đầu tiên sau khi chuyển phôi tươi không thành công. Tiêu chuẩn loại của nghiên cứu là những bệnh nhân có BMI 28 kg/m2, sử dụng phác đồ chu kỳ tự nhiên hoặc kích thích buồng trứng nhẹ, có hội chứng quá kích buồng trứng nghiêm trọng sau kích thích buồng trứng, tiền căn sẩy thai liên tiếp, bất thường tử cung, thực hiện chu kỳ tầm soát di truyền tiền làm tổ, chu kỳ nuôi trưởng thành noãn non, chu kỳ xin noãn và có bất thường nội mạc tử cung. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ thai diễn tiến. Bên cạnh đó nghiên cứu còn đánh giá các kết cục phụ như tỉ lệ -hCG (+), tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ đa thai, tỉ lệ thai ngoài tử cung.
Trong tổng số 732 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, chỉ có 646 bệnh nhân được chuyển phôi đông lạnh. Những bệnh nhân khác huỷ chu kỳ do không đáp ứng với estrogen, không có phôi sống sau rã đông, có sự hiện diện của polyp nội mạc tử cung, u nang chức năng, mang thai tự nhiên… Không có sự khác biệt đáng kể về các đặc điểm nền ( tuổi bệnh nhân, thời gian vô sinh, nguyên nhân vô sinh, BMI, nồng độ hormone cơ bản…) giữa hai nhóm. Các đặc điểm phôi học như số lượng noãn chọc hút được, số lượng phôi hữu dụng, số lượng phôi ngày 3 chất lượng tốt, số lượng phôi chuyển trung bình trong chu kỳ chuyển phôi tươi không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Số lượng phôi đông lạnh trung bình giữa hai nhóm đều là 2 phôi (P = 0,956) và độ dày nội mạc tử cung là 10,5 mm với 10,3 mm tương ứng ở nhóm 1 và nhóm 2 (P = 0,388). Khoảng thời gian trung bình từ chu kỳ chuyển phôi tươi đến khi chuyển phôi đông lạnh ở nhóm 1 là 25,2 ngày trong khi nhóm 2 là 103,5 ngày. Ngoài ra nghiên cứu còn báo cáo rằng những bệnh nhân ở nhóm 2 có mức độ căng thẳng cao hơn đáng kể so với nhóm 1.
Không có sự khác biệt về tỉ lệ thai diễn tiến giữa 2 nhóm (33,3% với 26,8%; RR 1,25, 95% CI 0,99 – 1,56; P = 0,053). Tương tự, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ làm tổ giữa 2 nhóm (32,8% với 26,2%; RR 1,25, 95% CI 0,99 – 1,57; p = 0,052) và (25,2% với 20,2%; RR 1,25, 95% CI 1,01 – 1,53, P = 0,038). Tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân nhóm 1 cao hơn nhóm 2 (41,7% với 34,1%; RR 1,23, 95% CI 1,00 – 1,50; P = 0,045). Tỉ lệ thai sinh hoá ở nhóm 1 cao gấp 2 lần so với nhóm 2 (30,2% với 11,6%; P < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sẩy thai giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tổng số thai sẩy trên xét nghiệm - hCG (+) ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 khoảng 80% (38,4% với 21,3%, P = 0,001). Tỉ lệ - hCG (+), tỉ lệ đa thai, tỉ lệ thai ngoài tử cung không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Phân tích hồi quy đa biến điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu như mức độ trầm cảm hoặc sự căng thẳng của bệnh nhân cho thấy nhóm 1 có tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ sinh sống cao hơn nhóm 2 đáng kể (OR 0,68; 95%CI 0,47 - 1,99; P = 0,041). Nguy cơ biến chứng cho mẹ và trẻ không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy ở những phụ nữ thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi, việc thực hiện chu kỳ chuyển phôi đông lạnh liền sau đó cho tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ sinh sống cao hơn những phụ nữ trì hoãn chuyển phôi đông lạnh. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm chứng cứ y văn cho thực hành lâm sàng, giúp bác sĩ thận trọng hơn trong chỉ định trì hoãn chuyển phôi đông lạnh cho bệnh nhân.
Nguồn: Jing‐Yan Song và cộng sự (2021). Immediate versus delayed frozen embryo transfer in women following a failed IVF-ET attempt: a multicenter randomized controlled trial. Reproductive Biology and Endocrinology. 10.1186/s12958-021-00819-9
Chuyển phôi đông lạnh (FET) ngày càng được sử dụng phổ biến vì những hiệu quả mà kỹ thuật này mang lại cho bệnh nhân điều trị hỗ trợ sinh sản. Số lượng chu kỳ ICSI/IVF thực hiện đông lạnh toàn bộ phôi thay vì chuyển phôi tươi chiếm tỉ lệ ngày càng cao. Tuy nhiên, những báo cáo về kết cục chu sinh trong chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy FET có tương quan với tỉ lệ xuất huyết trước sinh, tỉ lệ sinh non, thai ngoài tử cung và tỉ lệ trẻ nhẹ cân thấp hơn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác lại tho thấy FET có tương quan với việc tăng tỉ lệ biến chứng bong nhau non, tỉ lệ trẻ nặng cân hơn tuổi thai… Do đó cho đến nay, tác động của FET lên kết quả chu sinh vẫn cần có thêm nhiều nghiên cứu. Hiện nay, thời điểm FET tối ưu vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời chính xác. Trong thực hành lâm sàng hiện nay có 2 thời điểm chuyển phôi đông lạnh thường được bác sĩ lựa chọn đó là thực hiện FET trong chu kỳ kinh liền ngay sau khi chọc hút (chuyển phôi ngay lập tức) hoặc chuyển phôi sau 1 chu kỳ kinh tính từ khi chọc hút (chuyển phôi muộn). Một số nghiên cứu cho thấy không nên trì hoãn FET sau khi chuyển phôi tươi thất bại trong khi một số nghiên cứu khác báo cáo rằng nên trì hoãn FET sau khi chuyển phôi tươi thất bại, ít nhất là sau 1 chu kỳ kinh nguyệt. Khi đánh giá trên phương diện quan điểm của bệnh nhân chuyển phôi tươi thất bại, các tác giả thấy rằng bệnh nhân có xu hướng thực hiện FET ngay lập tức để có thai càng sớm càng tốt. Việc trì hoãn được xem như phương pháp ít thân thiện với bệnh nhân vì có thể làm tăng căng thẳng và lo lắng cho bệnh nhân khi điều trị IVF. Với những kết quả còn gây tranh cãi như vậy, Jing‐Yan Song và cộng sự (2021) đã thực hiện nghiên cứu này nhằm cung cấp thêm chứng cứ y văn về tỉ lệ thai khi chuyển phôi đông lạnh ngay lặp tức với chuyển phôi đông lạnh muộn sau chu kỳ chuyển phôi tươi không thành công.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, ngẫu nhiên, có nhóm chứng thực hiện trên 732 bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh chất lượng tốt sau khi thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi, từ tháng 5/2020 đến tháng 7/2021. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: FET tức thì (nhóm 1, n = 366 bệnh nhân) và FET trì hoãn (nhóm 2, n = 366 bệnh nhân). Tiêu chuẩn nhận của nghiên cứu là những bệnh nhân từ 21- 43 tuổi, kích thích buồng trứng bằng phác đồ có kiểm soát (COS), còn ít nhất 1 phôi đông lạnh và chu kỳ FET là chu kỳ đầu tiên sau khi chuyển phôi tươi không thành công. Tiêu chuẩn loại của nghiên cứu là những bệnh nhân có BMI 28 kg/m2, sử dụng phác đồ chu kỳ tự nhiên hoặc kích thích buồng trứng nhẹ, có hội chứng quá kích buồng trứng nghiêm trọng sau kích thích buồng trứng, tiền căn sẩy thai liên tiếp, bất thường tử cung, thực hiện chu kỳ tầm soát di truyền tiền làm tổ, chu kỳ nuôi trưởng thành noãn non, chu kỳ xin noãn và có bất thường nội mạc tử cung. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ thai diễn tiến. Bên cạnh đó nghiên cứu còn đánh giá các kết cục phụ như tỉ lệ -hCG (+), tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ đa thai, tỉ lệ thai ngoài tử cung.
Trong tổng số 732 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, chỉ có 646 bệnh nhân được chuyển phôi đông lạnh. Những bệnh nhân khác huỷ chu kỳ do không đáp ứng với estrogen, không có phôi sống sau rã đông, có sự hiện diện của polyp nội mạc tử cung, u nang chức năng, mang thai tự nhiên… Không có sự khác biệt đáng kể về các đặc điểm nền ( tuổi bệnh nhân, thời gian vô sinh, nguyên nhân vô sinh, BMI, nồng độ hormone cơ bản…) giữa hai nhóm. Các đặc điểm phôi học như số lượng noãn chọc hút được, số lượng phôi hữu dụng, số lượng phôi ngày 3 chất lượng tốt, số lượng phôi chuyển trung bình trong chu kỳ chuyển phôi tươi không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Số lượng phôi đông lạnh trung bình giữa hai nhóm đều là 2 phôi (P = 0,956) và độ dày nội mạc tử cung là 10,5 mm với 10,3 mm tương ứng ở nhóm 1 và nhóm 2 (P = 0,388). Khoảng thời gian trung bình từ chu kỳ chuyển phôi tươi đến khi chuyển phôi đông lạnh ở nhóm 1 là 25,2 ngày trong khi nhóm 2 là 103,5 ngày. Ngoài ra nghiên cứu còn báo cáo rằng những bệnh nhân ở nhóm 2 có mức độ căng thẳng cao hơn đáng kể so với nhóm 1.
Không có sự khác biệt về tỉ lệ thai diễn tiến giữa 2 nhóm (33,3% với 26,8%; RR 1,25, 95% CI 0,99 – 1,56; P = 0,053). Tương tự, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ làm tổ giữa 2 nhóm (32,8% với 26,2%; RR 1,25, 95% CI 0,99 – 1,57; p = 0,052) và (25,2% với 20,2%; RR 1,25, 95% CI 1,01 – 1,53, P = 0,038). Tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân nhóm 1 cao hơn nhóm 2 (41,7% với 34,1%; RR 1,23, 95% CI 1,00 – 1,50; P = 0,045). Tỉ lệ thai sinh hoá ở nhóm 1 cao gấp 2 lần so với nhóm 2 (30,2% với 11,6%; P < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sẩy thai giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tổng số thai sẩy trên xét nghiệm - hCG (+) ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 khoảng 80% (38,4% với 21,3%, P = 0,001). Tỉ lệ - hCG (+), tỉ lệ đa thai, tỉ lệ thai ngoài tử cung không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Phân tích hồi quy đa biến điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu như mức độ trầm cảm hoặc sự căng thẳng của bệnh nhân cho thấy nhóm 1 có tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ sinh sống cao hơn nhóm 2 đáng kể (OR 0,68; 95%CI 0,47 - 1,99; P = 0,041). Nguy cơ biến chứng cho mẹ và trẻ không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy ở những phụ nữ thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi, việc thực hiện chu kỳ chuyển phôi đông lạnh liền sau đó cho tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ sinh sống cao hơn những phụ nữ trì hoãn chuyển phôi đông lạnh. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm chứng cứ y văn cho thực hành lâm sàng, giúp bác sĩ thận trọng hơn trong chỉ định trì hoãn chuyển phôi đông lạnh cho bệnh nhân.
Nguồn: Jing‐Yan Song và cộng sự (2021). Immediate versus delayed frozen embryo transfer in women following a failed IVF-ET attempt: a multicenter randomized controlled trial. Reproductive Biology and Endocrinology. 10.1186/s12958-021-00819-9
Các tin khác cùng chuyên mục:
Định lượng DNA ti thể không xâm lấn ở phôi ngày 3 tiên lượng khả năng phát triển phôi nang: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Các thông số động học hình thái làm tiêu chí bổ trợ để lựa chọn phôi nang trong hệ thống nuôi cấy time – lapse - Ngày đăng: 16-09-2021
DNA ti thể trong môi trường nuôi cấy của phôi tươi so với phôi trữ ở bệnh nhân PCOS điều trị thụ tinh trong ống nghiệm: Một dấu ấn tiên lượng thai lâm sàng - Ngày đăng: 16-09-2021
Melatonin làm giảm stress oxi hóa và quá trình apoptosis do sốc nhiệt ở tinh trùng người - Ngày đăng: 16-09-2021
Són tiểu sau khi sinh ngả âm đạo hoặc mổ lấy thai - Ngày đăng: 16-09-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung đến chất lượng cuộc sống và tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm - Ngày đăng: 16-09-2021
Liệu sự sinh sản có giống nhau sau COVID-19 hay không? - Ngày đăng: 16-09-2021
Tỷ lệ trẻ sinh sống trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang sau 6 hoặc 7 ngày sử dụng progesterone: Nghiên cứu đoàn hệ theo phương pháp điểm xu hướng - Ngày đăng: 13-09-2021
Cải thiện kết quả đông lạnh tinh trùng người bằng phương pháp thủy tinh hóa cải tiến - Ngày đăng: 13-09-2021
Ảnh hưởng của vị trí đặt phôi lúc chuyển phôi lên kết quả IVF/ICSI: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 13-09-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK