Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 09-12-2020 4:06pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Võ Minh Tuấn - IVFMD Tân Bình

Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được phát triển vào đầu những năm 1990, đã trở thành một phần thường quy của điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) tại hầu hết các trung tâm hiếm muộn. Ban đầu, ICSI được chỉ định cho các trường hợp vô sinh do yếu tố nam ở mức độ nặng. Tuy nhiên, dần về sau chỉ định ICSI được mở rộng thêm cho các trường hợp vô sinh do yếu tố nam mức độ nhẹ, thất bại thụ tinh ở chu kì trước và các trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân. Tại một số trung tâm hiện nay, ICSI còn được chỉ định cho hầu hết các trường hợp vô sinh do cả người nam và nữ và chính những thay đổi này dẫn đến sự gia tăng rõ rệt tỷ lệ thực hiện kỹ thuật ICSI trong các chu kỳ TTTON (Boulet và cộng sự, 2015). Việc sử dụng ICSI cho các trường hợp vô sinh không phải do yếu tố nam đã đặt ra câu hỏi về tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật này. Các nghiên cứu ban đầu về ICSI đã chứng minh rằng tỷ lệ trẻ sinh sống từ kỹ thuật này là tương đương với IVF cổ điển. Mặc dù về cơ bản ICSI vẫn an toàn, nhưng nó đã làm tăng một số bất thường bẩm sinh ở trẻ em.

Nghiên cứu của Liu và cộng sự (2020) đánh giá các kết cục thai cũng như các biến chứng sản khoa và sơ sinh trên 18962 chu kỳ IVF cổ điển và 2937 chu kỳ ICSI. Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên những trường hợp vô sinh không do yếu tố nam mức độ nặng. Các cặp vợ chồng được phân tích dưới nhóm cho từng chỉ định điều trị gồm: tinh trùng dị dạng nhẹ hoặc trung bình, vô sinh không do yếu tố nam, bệnh nhân lớn tuổi, vô sinh chưa rõ nguyên nhân và tiền căn chọc hút ít noãn.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa IVF cổ điển và ICSI. Sự khác biệt đáng kể duy nhất được ghi nhận là tỷ lệ sinh đơn thai cao hơn và tỷ lệ đa thai giảm sau khi sử dụng ICSI đối với các trường hợp vô sinh không do yếu tố nam so với nhóm làm thực hiện IVF.

Sử dụng ICSI rõ ràng hiệu quả hơn cho các trường hợp vô sinh do yếu tố nam mức độ nặng và các trường hợp thất bại thụ tinh ở chu kì trước không rõ nguyên nhân. Nhưng câu hỏi vẫn là việc sử dụng ICSI đóng vai trò gì trong các trường hợp còn lại? Nếu tỷ lệ thành công cao hơn hoặc bất thường ở trẻ sơ sinh thấp hơn khi sử dụng kỹ thuật ICSI, thì việc sử dụng ICSI cho các trường hợp này là hợp lý, tuy nhiên nếu không có bất kỳ sự cải thiện nào so với IVF, ICSI sẽ gây khó khăn về mặt chi phí cho các cặp vợ chồng. Trong nghiên cứu của Liu và cộng sự (2020), không có cải thiện về các kết quả này đối với các trường hợp vô sinh không do yếu tố nam, kết quả cũng tương tự ở các trường hợp vô sinh do nam giới nhẹ.

Như vậy, nghiên cứu của Liu và cộng sự (2020) cho thấy không có sự cải thiện kết cục thai kỳ rõ ràng khi sử dụng ICSI so với IVF cổ điển ở một số trường hợp vô sinh. Nghiên cứu này giúp cung cấp thêm thông tin để các trung tâm hỗ trợ sinh sản cân nhắc việc sử dụng các kỹ thuật khác thay vì áp dụng kỹ thuật ICSI thường quy cho tất cả các trường hợp điều trị TTTON.

Nguồn: Stern, Judy E., and Ajay K. Nangia. "When do we use intracytoplasmic sperm injection?" Fertility and Sterility 114.4 (2020): 746-747.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK