Một nghiên cứu mới cho thấy sử dụng dầu cá trong thai kỳ không có tác dụng thúc đẩy não bộ của trẻ hay phòng ngừa chứng trầm cảm sau sinh cho mẹ.
Theo Maria Makrides, BSc, BND, PhD, thuộc bệnh viện Women’s and Children’s ở Adelaide, Úc, trẻ tiếp xúc với axit docosahexaenoic (DHA) - có nhiều trong dầu cá trong thai kì có điểm số nhận thức tổng thể gần bằng, còn điểm số ngôn ngữ có xu hướng thấp hơn so với những trẻ khác.
Báo cáo của các nhà điều tra trên Journal of the American Medical Association ngày 20/10 cho thấy: đối với các bà mẹ mới sinh lần đầu, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tần suất các triệu chứng trầm cảm sau sinh trong sáu tháng đầu tiên ở nhóm có sử dụng thuốc viên dầu cá so với những thai phụ không sử dụng (9,67% so với 11,19%, P = 0,09).
Nhiều thai phụ đã sử dụng DHA liều 200 mg / ngày như là nguồn thức ăn chính cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng cho sự phát triển của hệ thần kinh.
Makrides và các đồng nghiệp lưu ý mặc dù các bằng chứng dịch tễ học cho thấy nguy cơ trầm cảm sau sinh thấp hơn và phát triển thần kinh tốt hơn với chế độ ăn cá trong thai kỳ, nhưng các bằng chứng về việc bổ sung dầu cá ít được nhất trí hơn và còn bị giới hạn bởi các vấn đề về phương pháp luận.
Emily Oken, MD, MPH trường Đại học Harvard, và Mandy B. Belfort, MD, MPH, Bệnh viện Nhi Boston, trong một bài xã luận đã nhận xét rằng sự khác biệt này có thể phản ánh sự tồn tại của các yếu tố gây nhiễu trong các nghiên cứu quan sát, hoặc có thể ăn cá tốt hơn so với việc dùng thuốc bổ sung. Họ giải thích: "Điều này có thể do các phân tử acid béo không bão hòa n-3 có trong cá có nhiều hoạt tính sinh học hơn, hoặc các chất dinh dưỡng khác có lợi trong cá như selen, vitamin D và iod cũng có vai trò quan trọng".
Họ lưu ý nghiên cứu này cần theo dõi dài hạn những lợi ích từ quá trình phơi nhiễm thêm DHA trong những năm học của trẻ.
Nhóm Makrides cho rằng theo kết quả nghiên cứu của họ, không nên bổ sung DHA một cách thường quy cho phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, Oken và Belfort khuyến cáo rằng, hiện nay, thai phụ nên tiếp tục ăn các loại cá có hàm lượng DHA cao và hàm lượng thủy ngân thấp.
Nhóm Makrides đã sử dụng liều cao hơn liều được đề nghị - 800 mg / ngày DHA với 100 mg axít eicosapentaenoic – trong nghiên cứu DOMInO (DHA to Optimize Mother Infant Outcome - DHA nhằm tối ưu hóa kết quả cho mẹ và trẻ).
Các nhà nghiên cứu ghi chú rằng nghiên cứu của họ không bao gồm phân tích DHA trong chế độ ăn hoặc nồng độ cao của axit eicosapentaenoic, vốn là vấn đề đang được tranh luận về tỉ lệ đối với DHA trong thời kỳ chu sinh.
Nghiên cứu của họ được tiến hành trên 2399 phụ nữ có thai lần đầu với tuổi thai dưới 21 tuần ở các bệnh viện phụ sản của Úc, được phân bố ngẫu nhiên mù đôi sử dụng viên nang có chứa DHA hoặc giả dược là dầu thực vật, cho đến thời điểm sinh.
Nguy cơ có triệu chứng trầm cảm ở mẹ thấp hơn 15%, không có ý nghĩa thống kê, được xác định bằng thang điểm Edinburgh Postnatal Depression Scale (trên 12 điểm) vào thời điểm 6 tháng sau sinh (nguy cơ tương đối hiệu chỉnh là 0,85, khoảng tin cậy 95% là 0,70 đến 1,02).
Các nhà nghiên cứu cho biết vấn đề này cần được nghiên cứu thêm, mặc dù kết quả này thấp hơn so với tỉ lệ triệu chứng trầm cảm mong đợi, và các triệu chứng này vẫn chưa được xác định về mặt chẩn đoán lâm sàng.
Về phía trẻ, thang điểm Bayley về sự phát triển vào thời kì đầu của trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi lúc 18 tháng cho thấy những trẻ có mẹ đã bổ sung dầu cá không có điểm số tốt hơn về phối hợp nhận thức (độ khác biệt trung bình đã điều chỉnh là 0,01, P = 0,99) hoặc phối hợp ngôn ngữ (độ khác biệt trung bình đã điều chỉnh là -1,42, P = 0,09) so với trẻ trong nhóm chứng.
Tiếp xúc DHA trong tử cung dường như không có ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể, hành vi xã hội, cảm xúc, hoặc hành vi thích nghi trong18 tháng đầu.
DHA dường như có ảnh hưởng đến độ dài của thai kỳ, kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước. Các thử nghiệm DOMInO cho thấy ảnh hưởng lớn nhất của DHA là ở hai thái cực, với ít trường hợp xảy ra hơn đối với thai kỳ sinh rất non trước 34 tuần (1,09% so với 2,25% ở nhóm chứng, RR hiệu chỉnh 0,49, P = 0,03), và nhiều trường hợp xảy ra hơn đối với thai quá ngày cần can thiệp (17,59% so với 13,72% trong nhóm chứng, RR hiệu chỉnh 1,28, P = 0,01).
Các nhà xã luận cho biết giảm sinh non là một kết quả đáng chú ý mặc dù số trường hợp trong nghiên cứu không nhiều. Bởi lẽ, "sinh non còn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng khó điều trị, là nguyên nhân gây tử vong trẻ sơ sinh hàng đầu ở Mỹ, trong khi đó các biện pháp giảm gò tử cung chỉ có hiệu quả hạn chế và hiện vẫn chưa có chiến lược dự phòng cho dân số chung.”
Nguồn: MedPage Today
BS. Huỳnh Thị Mai Thanh
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...