Tin tức
on Wednesday 05-02-2025 2:31am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination - IUI) là phương pháp điều trị đầu tay được khuyến nghị trong trường hợp người vợ có ít nhất một ống dẫn trứng thông suốt và người chồng có tinh trùng bình thường hoặc bất thường nhẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công của IUI tương đối thấp với tỷ lệ thai tích lũy thường giới hạn sau 5-6 chu kỳ. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả IUI, như phương pháp kích thích buồng trứng, tuổi vợ, thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, số lượng nang phát triển, chất lượng tinh trùng, chỉ số khối cơ thể (BMI) và thói quen hút thuốc. Tuy vậy, giá trị dự đoán của các yếu tố này vẫn còn gây tranh cãi.
IUI là chiến lược hiệu quả về chi phí giúp cải thiện tỷ lệ sinh con sống đối với vô sinh nam nhẹ và vô sinh không rõ nguyên nhân. Do đó, IUI thường được áp dụng trước khi chuyển sang điều trị IVF.
Nghiên cứu nhằm đánh giá các thông số tinh trùng trước và sau lọc rửa và mối liên hệ của các thông số này với sự thành công của IUI.
Phương pháp
Đây là nghiên cứu hồi cứu 1380 ca IUI gồm 421 cặp vợ chồng được thực hiện từ tháng 1/2019 đến tháng 12/2021. Nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa thai kỳ lâm sàng với đặc điểm tinh trùng trước và sau lọc rửa, cũng như phân tích mối tương quan giữa sự cải thiện tinh trùng sau rửa và kết quả IUI trong tương lai, các đặc điểm tinh dịch trong các chu kỳ IUI không thành công trước đó ở những trường hợp mang thai, và tác động của tuổi tác đến chất lượng tinh trùng.
Kết quả
Đặc điểm của các cặp vợ chồng có thai và không có thai
Nghiên cứu ghi nhận 87 thai kỳ lâm sàng đạt được ở 81 phụ nữ với tỷ lệ thai là 19,2% trên mỗi bệnh nhân và 6,3% trên mỗi chu kỳ IUI. Trong chu kỳ đầu tiên, tỷ lệ thai lâm sàng là 2,4%, và tỷ lệ thai tích lũy tăng theo số chu kỳ. Bên cạnh đó, trong số các cặp vợ chồng mang thai, tỷ lệ thai ở chu kỳ IUI đầu tiên chiếm 30%. Độ tuổi trung bình của phụ nữ mang thai và người chồng thấp hơn đáng kể so với các cặp không mang thai, lần lượt là (33,6 ± 4,3 tuổi so với 36,0 ± 5,6 tuổi) và (34,6 ± 5,5 so với 36,6 ± 6,3 tuổi).
Chất lượng mẫu tinh dịch trước và sau lọc rửa ở các cặp vợ chồng có thai và không có thai
Các thông số tinh dịch (thể tích, mật độ, tổng số tinh trùng, tỷ lệ di động, tổng số tinh trùng di động) trước và sau lọc rửa không khác biệt đáng kể giữa các chu kỳ IUI đạt và không đạt thai kỳ. Tỷ lệ thai thường đạt được khi mật độ trước rửa >16×10⁶/ml và di động >42% (cao hơn ngưỡng WHO), nhưng vẫn có trường hợp có thai dù thông số thấp hơn tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, khi các cặp đôi được chia thành hai nhóm dựa vào kết quả mẫu ban đầu ở trên hoặc dưới ngưỡng WHO, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai không khác biệt khi thể tích mẫu trên hoặc dưới 1,4 ml (6,2% so với 6,3%, p=0,984) hay mật độ cao hoặc thấp hơn 16×10⁶/ml (6,3% so với 5,4%, p=0,683). Tỷ lệ thai cao hơn đáng kể khi di động trước rửa >42% (6,9% so với 3,7%, p= 0,042). Tuy nhiên, không có khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai giữa hai nhóm khi cả mật độ và di động đều cao hơn hoặc thấp hơn tiêu chuẩn WHO (6,9% so với 3,4%, p=0,298).
Về kết quả IUI được đánh giá ở mẫu tinh trùng sau rửa, tỷ lệ thai giảm đáng kể khi mật độ <16×10⁶/ml (3,2% so với 6,8%, p = 0,042) hoặc di động <42%. Ngoài ra, không có trường hợp mang thai khi cả mật độ và di động sau rửa dưới ngưỡng WHO.
Những thay đổi trong kết quả tinh dịch và kết quả của IUI
Khi so sánh các thay đổi về mật độ, di động của tinh trùng trước và sau rửa cùng mối liên hệ với kết quả IUI, một số trường hợp đạt thai kỳ khi mật độ hoặc di động không cải thiện sau rửa, nhưng phần lớn thai kỳ đạt được khi mật độ và di động sau rửa đạt hoặc vượt ngưỡng WHO.
Chất lượng tinh trùng trước đây và kết quả của IUI
Nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa tần suất cải thiện thông số tinh trùng sau rửa và thành công IUI qua nhiều chu kỳ. Đối với IUI 3 lần, tỷ lệ thai cao hơn ở các cặp đôi có di động cải thiện cả 3 lần so với 2 lần (13,7% so với 2,5%). Không có trường hợp mang thai nếu mật độ không cải thiện cả 3 lần. Đối với IUI 4 lần, tỷ lệ thai liên quan đến di động bình thường trong các chu kỳ không thành công trước đó.
Tuổi vợ và kết quả IUI, và tuổi chồng và kết quả tinh trùng sau rửa
Ở hai nhóm phụ nữ <35 và >35 tuổi, tỷ lệ thai cao hơn ở nhóm <35 so với >35 tuổi (8,3% so với 4,7%, p = 0,008). Khi mật độ tinh trùng sau rửa bình thường (>16 × 10⁶/ml), phụ nữ <35 tuổi có tỷ lệ thai cao hơn (8,8% so với 5,3%, p = 0,018). Khi mật độ sau rửa thấp hơn mức bình thường, không có khác biệt đáng kể giữa hai nhóm tuổi (4,9% so với 2,2%, p = 0,271). Ngoài ra, thông số tinh trùng trước khi rửa không bị ảnh hưởng bởi độ tuổi của người chồng, ngoại trừ tỷ lệ di động.
Bàn luận
Nhìn chung, chất lượng tinh trùng trước và sau lọc rửa không khác biệt giữa các chu kỳ IUI thành công và thất bại. Khi thông số tinh dịch thấp hơn ngưỡng WHO, IUI vẫn có thể đạt thai kỳ. Do đó, dù kết quả tinh dịch đồ kém, các cặp vợ chồng được khuyến nghị nên thực hiện IUI trước khi tìm đến phương pháp hỗ trợ sinh sản khác. Đặc biệt, di động ban đầu vẫn quan trọng đối với kết quả IUI dù chất lượng tinh trùng cần thiết cho IUI thấp hơn ngưỡng WHO.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mật độ và di động cải thiện sau lọc rửa, nhưng sự cải thiện không đồng đều ở các trường hợp. Thành công IUI phụ thuộc nhiều vào di động, cụ thể là tất cả thai kỳ đạt được đều liên quan đến di động sau rửa >42%, trong khi không có trường hợp nào thành công nếu thấp hơn ngưỡng này. Ngoài ra, các chu kỳ IUI không thành công trước đó vẫn có thể đạt thai kỳ ở chu kỳ thứ ba nếu di động sau rửa đạt chuẩn. Ở chu kỳ thứ tư, tỷ lệ thành công cao hơn nếu ít nhất hai chu kỳ trước tinh trùng sau rửa có di động >42%.
Xem xét ảnh hưởng của tuổi tác đối với chất lượng tinh trùng, nghiên cứu cho thấy chỉ có di động bị ảnh hưởng bởi tuổi chồng. Tuy nhiên, khi điều trị bằng IUI, di động giảm do tuổi tác không ảnh hưởng đến kết quả IUI nếu di động sau rửa >42%. Bên cạnh đó, kết quả IUI còn phụ thuộc vào độ tuổi vợ, nhưng tỷ lệ thai không khác biệt khi mật độ dưới mức bình thường của WHO, điều này cho thấy chất lượng noãn ở phụ nữ trẻ không bù đắp được cho mật độ tinh trùng thấp khi thực hiện IUI.
Kết luận
Di động tinh trùng >42% ở mẫu sau lọc rửa là một yếu tố quan trọng quyết định kết quả IUI.
Nguồn tham khảo: Taniguchi, M., Kanasaki, H., Oride, A., Okada, H., Imamura, K., & Kyo, S. (2024). Impact of current and previous sperm findings on outcomes of intrauterine insemination. Reproductive Medicine and Biology, 23(1), e12574. https://doi.org/10.1002/rmb2.12574
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination - IUI) là phương pháp điều trị đầu tay được khuyến nghị trong trường hợp người vợ có ít nhất một ống dẫn trứng thông suốt và người chồng có tinh trùng bình thường hoặc bất thường nhẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công của IUI tương đối thấp với tỷ lệ thai tích lũy thường giới hạn sau 5-6 chu kỳ. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả IUI, như phương pháp kích thích buồng trứng, tuổi vợ, thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, số lượng nang phát triển, chất lượng tinh trùng, chỉ số khối cơ thể (BMI) và thói quen hút thuốc. Tuy vậy, giá trị dự đoán của các yếu tố này vẫn còn gây tranh cãi.
IUI là chiến lược hiệu quả về chi phí giúp cải thiện tỷ lệ sinh con sống đối với vô sinh nam nhẹ và vô sinh không rõ nguyên nhân. Do đó, IUI thường được áp dụng trước khi chuyển sang điều trị IVF.
Nghiên cứu nhằm đánh giá các thông số tinh trùng trước và sau lọc rửa và mối liên hệ của các thông số này với sự thành công của IUI.
Phương pháp
Đây là nghiên cứu hồi cứu 1380 ca IUI gồm 421 cặp vợ chồng được thực hiện từ tháng 1/2019 đến tháng 12/2021. Nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa thai kỳ lâm sàng với đặc điểm tinh trùng trước và sau lọc rửa, cũng như phân tích mối tương quan giữa sự cải thiện tinh trùng sau rửa và kết quả IUI trong tương lai, các đặc điểm tinh dịch trong các chu kỳ IUI không thành công trước đó ở những trường hợp mang thai, và tác động của tuổi tác đến chất lượng tinh trùng.
Kết quả
Đặc điểm của các cặp vợ chồng có thai và không có thai
Nghiên cứu ghi nhận 87 thai kỳ lâm sàng đạt được ở 81 phụ nữ với tỷ lệ thai là 19,2% trên mỗi bệnh nhân và 6,3% trên mỗi chu kỳ IUI. Trong chu kỳ đầu tiên, tỷ lệ thai lâm sàng là 2,4%, và tỷ lệ thai tích lũy tăng theo số chu kỳ. Bên cạnh đó, trong số các cặp vợ chồng mang thai, tỷ lệ thai ở chu kỳ IUI đầu tiên chiếm 30%. Độ tuổi trung bình của phụ nữ mang thai và người chồng thấp hơn đáng kể so với các cặp không mang thai, lần lượt là (33,6 ± 4,3 tuổi so với 36,0 ± 5,6 tuổi) và (34,6 ± 5,5 so với 36,6 ± 6,3 tuổi).
Chất lượng mẫu tinh dịch trước và sau lọc rửa ở các cặp vợ chồng có thai và không có thai
Các thông số tinh dịch (thể tích, mật độ, tổng số tinh trùng, tỷ lệ di động, tổng số tinh trùng di động) trước và sau lọc rửa không khác biệt đáng kể giữa các chu kỳ IUI đạt và không đạt thai kỳ. Tỷ lệ thai thường đạt được khi mật độ trước rửa >16×10⁶/ml và di động >42% (cao hơn ngưỡng WHO), nhưng vẫn có trường hợp có thai dù thông số thấp hơn tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, khi các cặp đôi được chia thành hai nhóm dựa vào kết quả mẫu ban đầu ở trên hoặc dưới ngưỡng WHO, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai không khác biệt khi thể tích mẫu trên hoặc dưới 1,4 ml (6,2% so với 6,3%, p=0,984) hay mật độ cao hoặc thấp hơn 16×10⁶/ml (6,3% so với 5,4%, p=0,683). Tỷ lệ thai cao hơn đáng kể khi di động trước rửa >42% (6,9% so với 3,7%, p= 0,042). Tuy nhiên, không có khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai giữa hai nhóm khi cả mật độ và di động đều cao hơn hoặc thấp hơn tiêu chuẩn WHO (6,9% so với 3,4%, p=0,298).
Về kết quả IUI được đánh giá ở mẫu tinh trùng sau rửa, tỷ lệ thai giảm đáng kể khi mật độ <16×10⁶/ml (3,2% so với 6,8%, p = 0,042) hoặc di động <42%. Ngoài ra, không có trường hợp mang thai khi cả mật độ và di động sau rửa dưới ngưỡng WHO.
Những thay đổi trong kết quả tinh dịch và kết quả của IUI
Khi so sánh các thay đổi về mật độ, di động của tinh trùng trước và sau rửa cùng mối liên hệ với kết quả IUI, một số trường hợp đạt thai kỳ khi mật độ hoặc di động không cải thiện sau rửa, nhưng phần lớn thai kỳ đạt được khi mật độ và di động sau rửa đạt hoặc vượt ngưỡng WHO.
Chất lượng tinh trùng trước đây và kết quả của IUI
Nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa tần suất cải thiện thông số tinh trùng sau rửa và thành công IUI qua nhiều chu kỳ. Đối với IUI 3 lần, tỷ lệ thai cao hơn ở các cặp đôi có di động cải thiện cả 3 lần so với 2 lần (13,7% so với 2,5%). Không có trường hợp mang thai nếu mật độ không cải thiện cả 3 lần. Đối với IUI 4 lần, tỷ lệ thai liên quan đến di động bình thường trong các chu kỳ không thành công trước đó.
Tuổi vợ và kết quả IUI, và tuổi chồng và kết quả tinh trùng sau rửa
Ở hai nhóm phụ nữ <35 và >35 tuổi, tỷ lệ thai cao hơn ở nhóm <35 so với >35 tuổi (8,3% so với 4,7%, p = 0,008). Khi mật độ tinh trùng sau rửa bình thường (>16 × 10⁶/ml), phụ nữ <35 tuổi có tỷ lệ thai cao hơn (8,8% so với 5,3%, p = 0,018). Khi mật độ sau rửa thấp hơn mức bình thường, không có khác biệt đáng kể giữa hai nhóm tuổi (4,9% so với 2,2%, p = 0,271). Ngoài ra, thông số tinh trùng trước khi rửa không bị ảnh hưởng bởi độ tuổi của người chồng, ngoại trừ tỷ lệ di động.
Bàn luận
Nhìn chung, chất lượng tinh trùng trước và sau lọc rửa không khác biệt giữa các chu kỳ IUI thành công và thất bại. Khi thông số tinh dịch thấp hơn ngưỡng WHO, IUI vẫn có thể đạt thai kỳ. Do đó, dù kết quả tinh dịch đồ kém, các cặp vợ chồng được khuyến nghị nên thực hiện IUI trước khi tìm đến phương pháp hỗ trợ sinh sản khác. Đặc biệt, di động ban đầu vẫn quan trọng đối với kết quả IUI dù chất lượng tinh trùng cần thiết cho IUI thấp hơn ngưỡng WHO.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mật độ và di động cải thiện sau lọc rửa, nhưng sự cải thiện không đồng đều ở các trường hợp. Thành công IUI phụ thuộc nhiều vào di động, cụ thể là tất cả thai kỳ đạt được đều liên quan đến di động sau rửa >42%, trong khi không có trường hợp nào thành công nếu thấp hơn ngưỡng này. Ngoài ra, các chu kỳ IUI không thành công trước đó vẫn có thể đạt thai kỳ ở chu kỳ thứ ba nếu di động sau rửa đạt chuẩn. Ở chu kỳ thứ tư, tỷ lệ thành công cao hơn nếu ít nhất hai chu kỳ trước tinh trùng sau rửa có di động >42%.
Xem xét ảnh hưởng của tuổi tác đối với chất lượng tinh trùng, nghiên cứu cho thấy chỉ có di động bị ảnh hưởng bởi tuổi chồng. Tuy nhiên, khi điều trị bằng IUI, di động giảm do tuổi tác không ảnh hưởng đến kết quả IUI nếu di động sau rửa >42%. Bên cạnh đó, kết quả IUI còn phụ thuộc vào độ tuổi vợ, nhưng tỷ lệ thai không khác biệt khi mật độ dưới mức bình thường của WHO, điều này cho thấy chất lượng noãn ở phụ nữ trẻ không bù đắp được cho mật độ tinh trùng thấp khi thực hiện IUI.
Kết luận
Di động tinh trùng >42% ở mẫu sau lọc rửa là một yếu tố quan trọng quyết định kết quả IUI.
Nguồn tham khảo: Taniguchi, M., Kanasaki, H., Oride, A., Okada, H., Imamura, K., & Kyo, S. (2024). Impact of current and previous sperm findings on outcomes of intrauterine insemination. Reproductive Medicine and Biology, 23(1), e12574. https://doi.org/10.1002/rmb2.12574
Từ khóa: vô sinh, IUI, chất lượng tinh trùng
Các tin khác cùng chuyên mục:








THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK