Tin tức
on Friday 14-01-2022 10:14am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH_Nguyễn Thị Minh Anh _IVFMD Tân Bình
Khả năng lựa chọn phôi tiềm năng nhất là một yếu tố quyết định để tư vấn bệnh nhân chuyển đơn phôi nhằm hạn chế tình trạng đa thai. Hiện nay, vẫn có nhiều tranh luận giữa chuyển phôi phân chia (ngày 3) hay chuyển phôi nang (ngày 5). Tuy nhiên, theo số liệu báo cáo gần đây năm 2016 tại Mỹ cho thấy tỷ lệ chuyển phôi nang ngày càng tăng, chiếm 62% các chu kì chuyển phôi. Những lý do chính dẫn đến sự thay đổi này trong thực hành lâm sàng là nhờ vào những tiến bộ của kỹ thuật nuôi cấy, lựa chọn và bảo quản phôi. Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến phản đối chiến lược điều trị này như khả năng hủy chu kì cao do phôi không thể phát triển tiếp và số lượng phôi của bệnh nhân ít sẽ làm giảm tỷ lệ thai và sinh sống tích lũy. Một số nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng và phân tích tổng hợp ban đầu đã chứng minh rằng chuyển phôi nang giúp làm tăng tỷ lệ thai và tỷ lệ sinh sống ở lần chuyển phôi đầu tiên so với chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, một số bằng chứng gần đây lại cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thai tích lũy giữa việc chuyển phôi phân chia so với chuyển phôi nang. Có thể thấy, vẫn chưa rõ tuổi phôi có ảnh hưởng đến tỷ lệ thai và sinh sống tích lũy không, đặc biệt ở những chu kì xin noãn vì thông thường người cho noãn có khả năng sinh sản tốt. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh tỷ lệ sinh sống tích lũy, thời gian và chi phí cần thiết để có 1 em bé khỏe mạnh giữa 2 nhóm chuyển phôi nang và phôi phân chia ở những chu kì xin noãn.
Đây là nghiên cứu lâm sàng ngẫu nghiên có nhóm chứng được thực hiện từ tháng 4/2017 đến tháng 8/2018 tại Tây Ban Nha. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: chuyển phôi phân chia (ngày 3) và chuyển phôi nang (ngày 5). Bệnh nhân xin noãn có độ tuổi từ 18-50, thực hiện chu kì điều trị đầu tiên hoặc thứ 2. Các trường hợp có thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ hoặc sảy thai liên tiếp sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Nghiên cứu thu nhận được một số kết quả như sau:
· Tổng cộng có 127 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: 68 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển phôi ngày 3 và 59 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển phôi ngày 5.
· Tỷ lệ thai cộng dồn sau 12 tháng kể từ lần chuyển phôi đầu tiên cao hơn ở nhóm ngày 5 so với ngày 3 (75,4% ở nhóm ngày 5 so với 59,4% ở nhóm ngày 3).
· Tỷ lệ có thai và sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên ở nhóm ngày 5 cũng cao hơn ngày 3 với tỷ lệ thai là 44,9% ở nhóm ngày 3 và 70,8% nhóm ngày 5; tỷ lệ sinh sống là 33,6% nhóm ngày 3 và 56,9% nhóm ngày 5.
· Tổng số chu kì để đạt được tỷ lệ thai cộng dồn là 129 chu kì ở nhóm ngày 3 (69 chu kì phôi tươi và 60 chu kì phôi trữ), trong khi đó ở nhóm ngày 5 là 98 chu kì (65 chuyển phôi tươi và 33 chuyển phôi trữ). Chi phí trung bình cho mỗi ca có em bé đối với chu kì ngày 3 tăng 24% so với ngày 5.
· Thời gian để tỷ lệ sinh sống cộng dồn đạt đến 50% ở nhóm ngày 5 cũng thấp hơn đáng kể so với ngày 3.
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy việc chuyển phôi giai đoạn phôi nang ở những chu kì xin noãn nên được ưu tiên hơn vì giúp làm tăng tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống cũng như giảm thời gian mang thai và chi phí thực hiện so với chuyển phôi phân chia.
Nguồn: E. Clua , I. Rodr´ıguez , G. Arroyo , A. Racca , F. Mart´ınez , N.P. Polyzos , Blastocyst transfer increases cumulative-live-birth-rates and reduces time and cost to livebirth compared with cleavage stage in recipients of donated oocytes. A randomized controlled trial, Reproductive BioMedicine Online (2022). doi: https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2022.01.001
Khả năng lựa chọn phôi tiềm năng nhất là một yếu tố quyết định để tư vấn bệnh nhân chuyển đơn phôi nhằm hạn chế tình trạng đa thai. Hiện nay, vẫn có nhiều tranh luận giữa chuyển phôi phân chia (ngày 3) hay chuyển phôi nang (ngày 5). Tuy nhiên, theo số liệu báo cáo gần đây năm 2016 tại Mỹ cho thấy tỷ lệ chuyển phôi nang ngày càng tăng, chiếm 62% các chu kì chuyển phôi. Những lý do chính dẫn đến sự thay đổi này trong thực hành lâm sàng là nhờ vào những tiến bộ của kỹ thuật nuôi cấy, lựa chọn và bảo quản phôi. Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến phản đối chiến lược điều trị này như khả năng hủy chu kì cao do phôi không thể phát triển tiếp và số lượng phôi của bệnh nhân ít sẽ làm giảm tỷ lệ thai và sinh sống tích lũy. Một số nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng và phân tích tổng hợp ban đầu đã chứng minh rằng chuyển phôi nang giúp làm tăng tỷ lệ thai và tỷ lệ sinh sống ở lần chuyển phôi đầu tiên so với chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, một số bằng chứng gần đây lại cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thai tích lũy giữa việc chuyển phôi phân chia so với chuyển phôi nang. Có thể thấy, vẫn chưa rõ tuổi phôi có ảnh hưởng đến tỷ lệ thai và sinh sống tích lũy không, đặc biệt ở những chu kì xin noãn vì thông thường người cho noãn có khả năng sinh sản tốt. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh tỷ lệ sinh sống tích lũy, thời gian và chi phí cần thiết để có 1 em bé khỏe mạnh giữa 2 nhóm chuyển phôi nang và phôi phân chia ở những chu kì xin noãn.
Đây là nghiên cứu lâm sàng ngẫu nghiên có nhóm chứng được thực hiện từ tháng 4/2017 đến tháng 8/2018 tại Tây Ban Nha. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: chuyển phôi phân chia (ngày 3) và chuyển phôi nang (ngày 5). Bệnh nhân xin noãn có độ tuổi từ 18-50, thực hiện chu kì điều trị đầu tiên hoặc thứ 2. Các trường hợp có thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ hoặc sảy thai liên tiếp sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Nghiên cứu thu nhận được một số kết quả như sau:
· Tổng cộng có 127 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: 68 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển phôi ngày 3 và 59 bệnh nhân thuộc nhóm chuyển phôi ngày 5.
· Tỷ lệ thai cộng dồn sau 12 tháng kể từ lần chuyển phôi đầu tiên cao hơn ở nhóm ngày 5 so với ngày 3 (75,4% ở nhóm ngày 5 so với 59,4% ở nhóm ngày 3).
· Tỷ lệ có thai và sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên ở nhóm ngày 5 cũng cao hơn ngày 3 với tỷ lệ thai là 44,9% ở nhóm ngày 3 và 70,8% nhóm ngày 5; tỷ lệ sinh sống là 33,6% nhóm ngày 3 và 56,9% nhóm ngày 5.
· Tổng số chu kì để đạt được tỷ lệ thai cộng dồn là 129 chu kì ở nhóm ngày 3 (69 chu kì phôi tươi và 60 chu kì phôi trữ), trong khi đó ở nhóm ngày 5 là 98 chu kì (65 chuyển phôi tươi và 33 chuyển phôi trữ). Chi phí trung bình cho mỗi ca có em bé đối với chu kì ngày 3 tăng 24% so với ngày 5.
· Thời gian để tỷ lệ sinh sống cộng dồn đạt đến 50% ở nhóm ngày 5 cũng thấp hơn đáng kể so với ngày 3.
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy việc chuyển phôi giai đoạn phôi nang ở những chu kì xin noãn nên được ưu tiên hơn vì giúp làm tăng tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống cũng như giảm thời gian mang thai và chi phí thực hiện so với chuyển phôi phân chia.
Nguồn: E. Clua , I. Rodr´ıguez , G. Arroyo , A. Racca , F. Mart´ınez , N.P. Polyzos , Blastocyst transfer increases cumulative-live-birth-rates and reduces time and cost to livebirth compared with cleavage stage in recipients of donated oocytes. A randomized controlled trial, Reproductive BioMedicine Online (2022). doi: https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2022.01.001
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tiêu thụ thực phẩm giàu protein liên quan đến kết quả điều trị vô sinh bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 12-01-2022
Tác dụng của vacxin mRNA chống COVID-19 đối với nồng độ AMH huyết thanh ở phụ nữ - Ngày đăng: 12-01-2022
Kết quả bảo tồn sinh sản ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: so sánh giữa phác đồ kích thích buồng trứng có mồi progestin so với phác đồ đối vận - Ngày đăng: 12-01-2022
Dự đoán số lượng phôi nang có thể dùng để chuyển trong những trường hợp dự định thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 10-01-2022
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM VÀ RỐI LOẠN DI TRUYỀN: 4 HỘI CHỨNG IN DẤU DI TRUYỀN CÓ LIÊN QUAN - Ngày đăng: 08-01-2022
Tác động tiêu cực của sự hiện diện vi-rút HPV và sự tăng phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả điều trị IUI - Ngày đăng: 07-01-2022
Tiến bộ trong khoa học sinh sản cấy ghép: cấy ghép mô tinh hoàn và nuôi cấy tinh trùng trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-01-2022
So sánh hiệu quả điều trị của việc chuyển đơn phôi nang chất lượng tốt giữa bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang và bệnh nhân có chức năng phóng noãn bình thường - Ngày đăng: 06-01-2022
So sánh tác dụng của hai nhóm chất gây mê Propofol và Dexmedetomidine trong quá trình chọc hút noãn lên kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) - Ngày đăng: 06-01-2022
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống sau chu kỳ chuyển phôi tươi ở phụ nữ hiếm muộn sau phẫu thuật bóc u nội mạc tử cung - Ngày đăng: 06-01-2022
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK