Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 02-06-2011 1:29am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin trong nước

new_1306899526

 

Nuôi trưởng thành noãn (IVM) là một cải tiến của thụ tinh trong ống nghiệm, an toàn hơn, thuận tiện hơn, chi phí thấp hơn.

 

 


Thông tin nuôi trưởng thành công noãn thụ tinh trong ống nghiệm được Ths.BS Hồ Mạnh Tường, Tổng TK Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TPHCM đưa ra tại Hội nghị Khoa học kỹ thuật.

Tỉ lệ thành công cao

BS. Hồ Mạnh Tường cho hay, nuôi trưởng thành noãn (IVM) là một cải tiến của thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON), góp phần làm kỹ thuật TTTON trở nên an toàn hơn, thuận tiện hơn, chi phí thấp hơn.

Theo phác đồ TTTON lâu nay là phải kích thích buồng trứng mới thực hiện được. Tuy nhiên, việc kích thích này dễ gây ra những biến chứng nguy hiểm, đặc biệt ở những người mắc hội chứng đa nang buồng trứng. Hơn nữa, lượng thuốc sử dụng để kích thích đã chiếm từ 60 - 70% giá thành điều trị vô sinh; thời gian điều trị cũng phải mất từ 2 - 4 tuần...

hiemmuon

Nuôi cấy trứng non thụ tinh trong ống nghiệm bằng kỹ thuật IVM tại BV An Sinh. Ảnh: P.V

"Kỹ thuật này là quá trình nuôi trưởng thành trứng người bên ngoài cơ thể từ giai đoạn túi mầm đến giai đoạn đầu kỳ giữa. Sau đó, trứng giai đoạn đầu kỳ giữa sẽ được thụ tinh và phát triển thành phôi như bình thường.

Do đó, IMV là một cải tiến của TTTON cổ điển về quy trình thu nhận noãn, thay vì phải dùng rất nhiều nội tiết tố để kích thích nang noãn phát triển, ta có thể thu nhận noãn trực tiếp từ các nang noãn nhỏ có sẵn trong buồng trứng mà không cần dùng thuốc nội tiết kích thích. Kỹ thuật này được báo cáo thành công trên thế giới vào năm 1994...", BS. Tường cho biết.

Cũng theo BS. Tường, phác đồ TTTON kết hợp IVM có lợi điểm là không dùng thuốc kích thích buồng trứng hoặc ít sử dụng. Đồng thời, bệnh nhân cũng mất ít thời gian để đến bệnh viện tiêm thuốc, siêu âm, xét nghiệm. Nhờ vậy, chi phí của phác đồ này thấp hơn, nguy cơ quá kích buồng trứng được loại trừ, giảm tỷ lệ biến chứng cho bệnh nhân.

Hiện nay, chi phí thực hiện TTTON tại Việt Nam thuộc loại thấp nhất trên thế giới, nếu dùng phương pháp cổ điển (IVF)  là 50 triệu đồng nhưng nếu áp dụng kỹ thuật IVM chỉ mất 25 triệu đồng. Ưu điểm nổi bật của IVM là an toàn cho bệnh nhân, loại trừ nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng và các tác dụng phụ khác của kích thích buồng trứng.

Ngoài ra, kỹ thuật IVM rút ngắn thời gian điều trị. Nếu như phác đồ TTTON bình thường kéo dài từ hơn 2 - 4 tuần thì quy trình IVM kéo dài chưa đến 1 tuần; bệnh nhân chỉ tiêm 4 mũi thuốc thay vì 20 - 40 mũi. Tỉ lệ thành công của TTTON theo kỹ thuật mới này là 35%. Hiện đã có nhiều trường hợp thất bại trong điều trị TTTON truyền thống nhưng đã thành công khi đến với kỹ thuật mới này.

150 trẻ  đã ra đời bằng kỹ thuật IVM

Hiện có 2 đơn vị đang áp dụng kỹ thuật IVM, đó là: BV An Sinh, BV Vạn Hạnh. Trong đó đơn vị IVM Bệnh viện An Sinh (IVMAS) là một trong những Trung tâm thực hiện IVM nhiều nhất hiện nay.

- BV An Sinh TP HCM: 10 Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận; ĐT: (08) 3.845.7777.

- BV Vạn Hạnh TP HCM: 781/ B1-B3-B5 Lê Hồng Phong nối dài, quận 10;  ĐT: (08 ) 38632553 , (08) 38632554

BS. Hồ Mạnh Tường còn cho biết: Hiện nay trên thế giới có khoảng 2.000 trường hợp sinh từ IVM; trong đó Việt Nam là một trong những nước đóng góp vào số này với số lượng tăng nhanh.

Tỉ lệ có thai sau thực hiện IVM ở Việt Nam hiện nay thuộc nhóm thành công cao trên thế giới. Cho đến nay, đã có hơn 150 trẻ sinh ra từ kỹ thuật IVM tại Việt Nam. Trung bình các trường hợp đơn thai có cân nặng là 2.965 g, các bé song thai là 2.272 g; không có trường hợp nào dị tật bẩm sinh.

Cũng theo BS. Tường, ứng dụng IVM trong TTTON là một xu hướng mới trong hỗ trợ sinh sản hiện nay. Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á triển khai thành công kỹ thuật IVM trong hỗ trợ sinh sản.

"Các trường hợp Hội chứng buồng trứng đa nang là đối tượng phù hợp nhất của IVM. Trong những năm đầu thực hiện IVM ở Việt Nam, chúng tôi chủ yếu thực hiện cho những đối tượng này. 

Ở những bệnh nhân này, khi thực hiện TTTON cổ điển với phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn, tỉ lệ bị hội chứng quá kích buồng trứng là rất cao.


Ngược lại, một số trường hợp khác lại không đáp ứng với kích thích buồng trứng. Trong khi đó, số nang noãn có sẵn ở hai buồng trứng là rất nhiều và có thể lấy được nhiều nang noãn mà không cần kích thích buồng trứng.

Ngoài ra, chúng tôi cũng đã áp dụng IVM cho 20 trường hợp nguy cơ quá kích buồng trứng cao, tỉ lệ thai lâm sàng là 40% (8/20 trường hợp) và không có trường hợp nào trong 20 bệnh nhân này bị hội chứng quá kích buồng trứng", BS. Tường chia sẻ.

Theo BS. Tường, trong thời gian tới, sẽ tiếp tục cải tiến quy trình nhằm nâng cao tỉ lệ thành công và mở rộng các chỉ định của IVM để có thể áp dụng kỹ thuật này cho nhiều đối tượng bệnh nhân hơn.

Đánh giá về giá trị của kỹ thuật IVM, GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng - Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - cho rằng, đây là tin rất vui cho nền y học nước nhà. Điều ý nghĩa hơn, với chi phí này có thể tạo cơ hội cho nhiều cặp vợ chồng bị vô sinh sớm có khả năng tiếp cận điều trị và có con.

"Tỉ lệ có thai sau thực hiện IVM ở Việt Nam hiện nay thuộc nhóm thành công cao trên thế giới. Cho đến nay đã có hơn 150 trẻ sinh ra từ kỹ thuật IVM tại Việt Nam. Trung bình các trường hợp đơn thai có cân nặng là 2.965g, các bé song thai là 2272g; không có trường hợp nào dị tật bẩm sinh".

ThS. BS Hồ Mạnh Tường

Theo GiaDinh.net

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hội thảo quốc tế ART Focus 2013 - Ngày đăng: 17-05-2013
IVF Expert Meeting lần 6 - Ngày đăng: 11-01-2011
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK