Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 24-02-2017 11:13am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin cộng đồng
BS Lê Long Hồ



Khả năng sinh sản của con người đang giảm trên toàn cầu, cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Theo ước tính, có hơn 70 triệu cặp vợ chồng vô sinh. Nhiều yếu tố ảnh hưởng làm giảm khả năng sinh sản, trong đó tuổi mẹ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai. Nhiều phụ nữ muốn trì hoãn việc có con và sau đó lại rất khó khăn để có con khi đã lớn tuổi. Tuổi lớn làm giảm chất lượng và số lượng trứng dẫn đến khó có thai. Sự suy giảm khả năng sinh sản và tỷ lệ có thai bắt đầu ở tuổi 32 và giảm có ý nghĩa ở tuổi 35 và rất nhanh ở tuổi ≥ 40. Đồng thời với việc giảm khả năng sinh sản ở nhóm lớn tuổi là tăng tỷ lệ sẩy thai.

Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phát triển với tốc độ rất nhanh trong những năm gần đây và nhóm lớn tuổi đến điều trị ngày càng nhiều, các báo cáo cho thấy 19% phụ nữ điều trị hỗ trợ sinh sản có độ tuổi trên 40. Tuổi cao tác động xấu đến kết cục thụ tinh trong ống nghiệm và tỷ lệ trẻ sinh sống, đặc biệt ở nhóm trên 40. Một số trung tâm IVF từ chối điều trị cho nhóm phụ nữ trên 40 tuổi vì tỷ lệ thành công rất thấp. Thụ tinh trong ống nghiệm tốn nhiều chi phí, thời gian, bệnh nhân chịu nhiều căng thẳng, do đó các cặp vợ chồng hiếm muộn lớn tuổi đến điều trị cần được tư vấn kỹ để hiểu rõ về khả năng thành công trước khi quyết định điều trị.

Aflatoonian. A và cs thực hiện nghiên cứu hồi cứu trên 315 phụ nữ điều trị hỗ trợ sinh sản ở bệnh viện Madar, Yazd. Đối tượng là những phụ nữ ≥ 40 tuổi được chỉ định thụ tinh trong ống nghiệm. Nghiên cứu nhận dữ liệu IVF hoặc ICSI và chuyển phôi tươi. Sau đó theo dõi kết cục có thai, sẩy thai, tỷ lệ hủy chu kỳ và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Loại những trường hợp xin trứng, mang thai hộ, ZIFT, GIFT và chuyển phôi trữ. Sử dụng phác đồ dài, phác đồ ngắn. Khi ít nhất 2 nang noãn đạt kích thước 18mm, thì tiêm hCG 10000 IU để trưởng thành noãn. Chọc hút trứng sau 34 – 36 tiếng sau, sử dụng kỹ thuật IVF hoặc ICSI để thụ tinh.

Chuyển phôi ngày 2 hoặc ngày 3 bằng catheter Labotect tùy vào số lượng và chất lượng phôi. Hỗ trợ hoàng thể bằng progesterone 100 mg tiêm bắp hoặc progesterone 400mg đặt âm đạo bắt đầu từ ngày chọc hút đến khi hết tam cá nguyệt I hoặc khi thử thai âm tính.

Xác định có thai bằng xét nghiệm beta-hCG sau 14 ngày chuyển phôi. Thai lâm sàng được định nghĩa là khi quan sát được tim thai trên siêu âm đầu dò âm đạo 3 tuần sau khi beta-hCG dương tính. Sẩy thai được định nghĩa là thai ra khỏi cơ thể mẹ khi thai dưới 20 tuần tuổi. Hủy chu kỳ được định nghĩa là không có phôi chuyển do không có trứng hoặc không có phôi. Trẻ sinh sống được định nghĩa là sinh được ít nhất một trẻ sống sau 20 tuần.
 
Các phụ nữ trong nghiên cứu có tuổi từ 40 – 49, tuổi trung bình là 41,87 ± 1,97, trong đó nhóm 40 – 41 tuổi chiếm 52,4%, nhóm 42 – 44 tuổi chiếm 35,7% và nhóm trên 45 tuổi chiếm 11,9%. Số trứng chọc hút được trung bình là 3,2 ± 2,76. Số phôi trung bình là 1,84 ± 1,63 và số phôi chuyển trung bình là 1,6 ± 1,13.

Tỷ lệ beta-hCG dương là 8,6% (27/313). Tỷ lệ thai lâm sàng là 3,8% (12/313). Tỷ lệ sẩy thai là 63% (17/27), tính trên tổng số ca thử thai dương tính. Tỷ lệ hủy chu kỳ là 23,3%. Tỷ lệ trẻ sinh sống là 3,2% (10/313) trong đó 8 ca có tuổi mẹ dưới 42. Đặc biệt ở nhóm trên 46 tuổi, không có trường hợp nào có thai.

Chất lượng trứng ảnh hưởng nhiều nhất lên tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm. Các nguyên nhân khác có thể ảnh hưởng lên kết cục thụ tinh trong ống nghiệm như bất thường nội mạc tử cung, nhân xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung. Các trường hợp xin trứng nhưng vẫn thất bại có thể do sự chấp nhận của nội mạc tử cung bị giảm khi bệnh nhân lớn tuổi.

Tư vấn cả 2 vợ chồng ở nhóm lớn tuổi về nguy cơ tuổi tác ảnh hưởng lên tỷ lệ thành công, nguy cơ không trứng, không phôi trước khi điều trị là rất quan trọng, xin trứng hoặc xin con nuôi có thể là hướng thay thế cho bệnh nhân nếu có thể. Chi phí cho chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm sử dụng trứng tự thân sẽ cao hơn chu kỳ xin trứng. Một số trung tâm IVF từ chối điều trị ở nhóm bệnh nhân trên 40 tuổi bởi khả năng sinh sản rất thấp và nguy cơ cao bị các bất thường về di truyền ở thai nhi.

Dựa trên nghiên cứu này, tác giả đề nghị ở nhóm bệnh nhân trên 42 tuổi cần được tư vấn nhiều lựa chọn điều trị để bệnh nhân tự chọn lựa bao gồm xin trứng, xin con nuôi mặc dù các quyết định đều quan trọng và khó khăn.

Nguồn: Outcome of assisted reproductive technology in women aged 40 years and older

Aflatoonian A, Eftekhar M, Mohammadian F, Yousefnejad F. Outcome of assisted reproductive technology in women aged 40 years and older. Iranian Journal of Reproductive Medicine. 2011;9(4):281-284.
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Y học sinh sản tập 57, Qúy I/2021 - Thai lạc chỗ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK