Cũng như sắt, kẽm, canxi... magiê là khoáng chất cần thiết cho sự phát triển thể lực và trí tuệ của trẻ. Thiếu magiê trẻ sẽ chậm lớn, hệ thống thần kinh và bắp thịt hoạt động không được điều hoà, đưa đến thiếu canxi và phốtpho, gây nên các triệu chứng buồn nôn, chán ăn, mất ngủ, mệt mỏi, đau nhức, run rẩy, co giật tay chân. Nếu nồng độ magiê trong máu giảm nặng, sẽ có triệu chứng yếu liệt cơ, co giật, tăng kích thích, dẫn đến hạ đường huyết, hôn mê.
Nhu cầu magiê của cơ thể không cao, nhưng tỷ lệ trẻ thiếu magiê không nhỏ. Trẻ bị bệnh thường có nguy cơ bị hạ magiê trong máu. Theo một nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Nhi Đồng 1, TP.HCM, hạ magiê máu xuất hiện ở trẻ bệnh từ 3 tháng đến 7 tuổi, phổ biến ở nhóm trẻ từ 12 – 24 tháng tuổi. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho thấy gần 50% trẻ ăn kiêng không đúng khi bị bệnh, trẻ biếng ăn, trẻ có chế độ ăn không phù hợp với lứa tuổi hoặc có kèm theo tình trạng suy dinh dưỡng.
Bao nhiêu mới đủ?
Theo khuyến nghị của viện Dinh dưỡng quốc gia Việt Nam, nhu cầu magiê trong một ngày cho trẻ nhỏ như trong bảng kèm bài.
Magiê không được tạo ra trong cơ thể mà chỉ được cung cấp từ thực phẩm, magiê lại có trong nhiều loại thực phẩm khác nhau. Vì vậy phụ huynh cần quan tâm đến chế độ ăn của trẻ, cung cấp cho trẻ đủ nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng phù hợp với mỗi lứa tuổi. Magiê có nhiều nhất trong các loại đậu như đậu xanh (270mg/100g), đậu nành (236mg/100g) và có mặt hầu hết trong thực phẩm với số lượng nhiều hay ít tuỳ loại, ví dụ:
Thực phẩm nhóm giàu chất bột đường: gạo (14mg/100g), bánh mì (22mg/100g), các loại khoai (30mg/100g).
Thực phẩm nhóm giàu chất đạm: thịt (20 – 30mg/100g), hải sản (30 – 40mg/100g), trứng (11mg/100g), sữa bò (16mg/100g).
Thực phẩm nhóm giàu vitamin, muối khoáng: rau mồng tơi (94mg/100g), rau khoai lang (60mg/100g), giá (29mg/100g), chuối (41mg/100g), sầu riêng (32mg/100g).
Thực phẩm nhóm giàu chất béo: mè (350mg/100g), đậu phộng (185mg/100g).
Một số điều cần lưu ý khi nuôi trẻ
Để phòng ngừa tình trạng thiếu magiê ở trẻ, cần cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu. Tập cho trẻ ăn giặm khi trẻ được sáu tháng. Cuối tháng thứ sáu, trẻ bú mẹ và ăn khoảng 1 – 2 chén bột/ngày. Một chén bột (cháo) luôn phải có: một muỗng canh các thực phẩm giàu đạm (thịt, cá, tàu hũ, đậu xanh…), một muỗng canh rau các loại (rau dền, mồng tơi, rau muống...) và một muỗng canh dầu ăn. Cho trẻ ăn cả xác thực phẩm.
Cho trẻ tiếp tục bú sữa mẹ cho đến 2 tuổi và ăn bột (hoặc cháo). Trẻ từ 6 – 9 tháng: 3 chén bột/ngày; trẻ 9 – 12 tháng: 4 chén bột/ngày; trẻ 12 – 24 tháng: 5 chén bột/ngày.
Chỉ cho trẻ ăn cơm khi trẻ được 2 tuổi, đã có đủ răng hàm để nhai. Từ 2 – 5 tuổi, cho trẻ ăn ba bữa chính và hai bữa phụ, bữa chính phải đủ chất và lượng, bữa phụ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao như sữa, yaourt, chè đậu… chứ không phải nước ngọt, kẹo hay bánh snack…
Trẻ lớn hơn 5 tuổi nên tiếp tục uống sữa, bữa ăn luôn phải đủ bốn nhóm thực phẩm, thức ăn phải đa dạng và phong phú.
Trẻ cần được theo dõi sức khoẻ thường xuyên để can thiệp kịp thời khi có dấu hiệu sụt cân hoặc tăng cân quá mức, phòng ngừa nguy cơ suy dinh dưỡng hoặc béo phì. Khi trẻ bị bệnh, cần được các chuyên viên dinh dưỡng tư vấn để có chế độ ăn phù hợp với tình trạng bệnh.
Nguồn: Báo Sài Gòn Tiếp Thị
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...