Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 29-10-2020 6:19pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương


Trong thụ tinh trong ống nghiệm, kích thích buồng trứng có kiểm soát được sử dụng nhằm mục đích thu được nhiều noãn trong chu kì. Các đặc điểm hình thái noãn vẫn luôn là vấn đề được quan tâm khi tiên lượng khả năng phát triển phôi. Nghiên cứu đánh giá noãn hiện tại phần lớn tập trung vào các bất thường noãn như quầng hạt thô, bào tương đậm màu hay không bào và phân mảnh. Tuy nhiên, một số nghiên cứu trên động vật và số ít nghiên cứu trên người cho thấy có mối tương quan giữa kích thước noãn và khả năng trưởng thành, tỉ lệ thụ tinh cũng như phát triển phôi đến giai đoạn phôi nang. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa đường kính trung bình của noãn với chất lượng phôi.

Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 471 chu kì ICSI với 3355 noãn MII. Noãn được đo đường kính sau khi tách (không tính zona pellucida). Trong nghiên cứu, đường kính noãn trung bình - MOD (mean oocyte diameter) của noãn dao động từ 72μm -163μm (trung bình 112,32 ± SD 6,38μm) và được chia thành 6 nhóm:

1. Nhóm 1 < − 2SD so với kích thước trung bình (< 99.58 μm)
2. Nhóm 2 từ 2SD đến − 1SD, tương ứng 99.58 - 105.95 μm
3. Nhóm 3 từ -1SD đến giá trị trung bình, tương ứng 105.96 - 112.32 μm
4. Nhóm 4 từ giá trị trung bình đến +1SD, tương ứng 112.33 - 118.69 μm
5. Nhóm 5 từ giá trị + 1SD đến + 2SD, tương ứng 118.7 - 125.06 μm
6. Nhóm 6 > + 2SD, tương ứng > 125.06 μm

Tất cả các phôi được theo dõi đến ngày 5 và được đánh giá chất lượng theo hệ thống phân loại của Gardner.
Kết quả cho thấy:

- Tổng cộng có 523 phôi loại 1, 527 phôi loại 2, 127 phôi loại 3 và 470 phôi chậm tại ngày 5, tỉ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang tương ứng 49,1%

+ Tỉ lệ phôi L1+L2 ở nhóm 1, 2, 3 lần lượt là 2,4%, 18,5%, 34,1%, nhóm 4, 5 và 6 lần lượt là 33,3%, 33,8% và 6,1%. Có mối tương quan giữa đường kính trung bình của noãn và chất lượng phôi khi so sánh giữa nhóm 3 và 4 so với nhóm 1, 2 và 6 (p <0,005), cụ thể phôi phát triển từ các noãn có MOD gần với mức trung bình -1SD <MOD <+ 1SD có tỉ lệ phôi chất lượng tốt cao hơn so với phôi phát triển từ noãn có MOD rất nhỏ hoặc rất lớn.

Từ các kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả tiên lượng chất lượng phôi tương ứng MOD trong khoảng 105.96 - 118.69 μm là những noãn có tiên lượng tốt, các nhóm MOD 1, 2 và 6 có noãn được tiên lượng xấu và nhóm 5 bao gồm các noãn có tiên lượng phát triển thành phôi nang ở mức trung bình. Nghiên cứu gợi ý rằng việc đánh giá MOD có thể đóng vai trò như một giá trị dự đoán chất lượng tốt vào ngày 5.
 
Nguồn: Rawad Bassill và cs., (2020). Can Oocyte Diameter Predict Embryo Quality? Reproductive Endocrinology. DOI: 10.1007/s43032-020-00306-3

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK