- Một nghiên cứu quan sát thuần tập tiến cứu lớn (Brittany M Charlton và cs, 2015) được thực hiện ở Đan Mạch, dữ liệu về việc sử dụng OCs và những dị tật thai nhi lớn được thu thập từ năm 1997 đến năm 2011. Đánh giá ảnh hưởng của việc dùng OCs trong thời gian gần hoặc trong lúc có thai và các dị tật thai nhi lớn được theo dõi trong 1 năm (các dị tật lớn dựa theo phân loại của European Surveillance of Congenital Anomalies). Sử dụng mô hình hồi quy để tính toán tỉ số Odd (ORs) về nguy cơ dị tật ở mỗi nhóm và phân nhóm nhỏ.
Kết quả:
- Trong số 880.694 trẻ sinh ra được theo dõi, 2,5% (n=22013) số trẻ có dị tật thai nhi lớn phát hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống. Hơn hai phần ba bà mẹ (69%, n=611.007) đã sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống nhưng ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai, 21% số bà mẹ (n = 183.693) chưa bao giờ sử dụng OCs, 8% bà mẹ vừa ngưng sử dụng OCs trước khi có thai (0 - 3 tháng) và 1% sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Tỉ lệ trẻ có dị tật lớn ở nhóm bà mẹ chưa bao giờ sử dụng OCs là 25,1%, 25% ở nhóm bà mẹ ngưng hơn 3 tháng trước khi có thai (nhóm tham khảo), 24,9% ở nhóm vừa ngưng OCs trước khi có thai và 24,8% ở nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Phân tích kết cục chính của nghiên cứu cho thấy nguy cơ dị tật thai nhi lớn không tăng ở những nhóm tiếp xúc với OCs bao gồm nhóm bà mẹ vừa ngưng OCs trước khi có thai (OR 0,98, 95% Cl 0,93 – 1,03) và nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai (OR 0,95, 95% Cl 0,84 – 1,08).
- Phân tích phân nhóm của nghiên cứu cho thấy nguy cơ tăng các dị tật thai nhi lớn ở các phân nhóm nhỏ không có ý nghĩa thống kê (như hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ hô hấp...). Tất cả các chỉ số ORs so sánh giữa nhóm tiếp xúc và không tiếp xúc với OCs đều nhỏ hơn 1,15, ngoại trừ khuyết tật thành bụng. Nghiên cứu cũng đánh giá nguy cơ ở một số khuyết tật như thoát vị thành bụng (ORs 0,84, 95% Cl 0,26-2,68)) và hội chứng thiểu sản tim trái (ORs 2,47, 95% Cl 0,77 – 7,97) và các nguy cơ đều không có ý nghĩa thống kê.
- Ngược lại, ở nhóm bà mẹ không bao giờ sử dụng OCs lại tăng nhẹ nguy cơ mắc các dị tật thai nhi lớn (OR 1,06, 95% Cl 1,02 – 1,1) khi so sánh với nhóm tham khảo ở bà mẹ ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai. Còn ở phân nhóm nhỏ, chưa từng sử dụng OCs làm tăng nguy cơ dị tật hệ sinh dục (ORs hiệu chỉnh 1,17, 95% Cl 1,05 – 1,32), thần kinh (ORs hiệu chỉnh 1,24, 95% Cl 1,05 -1,45), tiêu hóa (ORs hiệu chỉnh 1,16, 95% Cl 1,00 – 1,33) và làm giảm nguy cơ dị tật thành bụng thai nhi (ORs hiệu chỉnh 0,51, 95% Cl 0,32 – 0,79).
Bàn luận và kết luận:
- Nghiên cứu không có một mô hình phân tích thống kê mạnh và thông tin về sử dụng axit folic.
- Nghiên cứu cho thấy việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống trước và sau khi có thai không làm tăng nguy cơ các dị tật thai nhi lớn. Phụ nữ mong muốn có thai sau khi ngưng dùng OCs, thì việc tiếp xúc với OCs không gây nên bất cứ dị tật nào trên thai nhi. Kết quả từ nghiên cứu thêm một bằng chứng cho thấy không có sự liên quan giữa việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống và dị tật thai nhi.
Tài liệu tham khảo:
1. Maternal use of oral contraceptives and risk of birth defects in Denmark: prospective, nationwide cohort study. BMJ 2016; 352 doi: http://dx.doi.org/10.1136/bmj.h6712.
2. Oral Contraceptive Use Before and During Pregnancy Appears Safe. Medscape Medical News Lara C. Pullen, PhD. January 07, 2016.
New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...
Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024
Khách sạn Caravelle Saigon, Chủ nhật 21.1.2024 (9:00 - 11:15)
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...