Tin chuyên ngành
on Thursday 21-01-2016 1:30pm
Danh mục: Sản khoa & nhi sơ sinh
- Thuốc ngừa thai dạng uống (OCs) là biện pháp ngừa thai phổ biến nhất hiện nay, hiệu quả ngừa thai cao có thể trên 99%. Tuy nhiên ước tính có khoảng 9% người dùng OCs có thai trong năm đầu tiên sử dụng, nguyên nhân có thể do quên hoặc chậm uống thuốc hay do tương tác thuốc và bệnh lý. Nhiều phụ nữ ngưng dùng OCs vài chu kì trước khi có thai và một số phụ nữ đang dùng OCs phát hiện mình mang thai. Ở những trường hợp này, bà mẹ và thai nhi đều đã tiếp xúc với một lượng nội tiết có trong OCs (estrogen và progestins).
- Một nghiên cứu quan sát thuần tập tiến cứu lớn (Brittany M Charlton và cs, 2015) được thực hiện ở Đan Mạch, dữ liệu về việc sử dụng OCs và những dị tật thai nhi lớn được thu thập từ năm 1997 đến năm 2011. Đánh giá ảnh hưởng của việc dùng OCs trong thời gian gần hoặc trong lúc có thai và các dị tật thai nhi lớn được theo dõi trong 1 năm (các dị tật lớn dựa theo phân loại của European Surveillance of Congenital Anomalies). Sử dụng mô hình hồi quy để tính toán tỉ số Odd (ORs) về nguy cơ dị tật ở mỗi nhóm và phân nhóm nhỏ.
Kết quả:
- Trong số 880.694 trẻ sinh ra được theo dõi, 2,5% (n=22013) số trẻ có dị tật thai nhi lớn phát hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống. Hơn hai phần ba bà mẹ (69%, n=611.007) đã sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống nhưng ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai, 21% số bà mẹ (n = 183.693) chưa bao giờ sử dụng OCs, 8% bà mẹ vừa ngưng sử dụng OCs trước khi có thai (0 - 3 tháng) và 1% sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Tỉ lệ trẻ có dị tật lớn ở nhóm bà mẹ chưa bao giờ sử dụng OCs là 25,1%, 25% ở nhóm bà mẹ ngưng hơn 3 tháng trước khi có thai (nhóm tham khảo), 24,9% ở nhóm vừa ngưng OCs trước khi có thai và 24,8% ở nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Phân tích kết cục chính của nghiên cứu cho thấy nguy cơ dị tật thai nhi lớn không tăng ở những nhóm tiếp xúc với OCs bao gồm nhóm bà mẹ vừa ngưng OCs trước khi có thai (OR 0,98, 95% Cl 0,93 – 1,03) và nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai (OR 0,95, 95% Cl 0,84 – 1,08).
- Phân tích phân nhóm của nghiên cứu cho thấy nguy cơ tăng các dị tật thai nhi lớn ở các phân nhóm nhỏ không có ý nghĩa thống kê (như hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ hô hấp...). Tất cả các chỉ số ORs so sánh giữa nhóm tiếp xúc và không tiếp xúc với OCs đều nhỏ hơn 1,15, ngoại trừ khuyết tật thành bụng. Nghiên cứu cũng đánh giá nguy cơ ở một số khuyết tật như thoát vị thành bụng (ORs 0,84, 95% Cl 0,26-2,68)) và hội chứng thiểu sản tim trái (ORs 2,47, 95% Cl 0,77 – 7,97) và các nguy cơ đều không có ý nghĩa thống kê.
- Ngược lại, ở nhóm bà mẹ không bao giờ sử dụng OCs lại tăng nhẹ nguy cơ mắc các dị tật thai nhi lớn (OR 1,06, 95% Cl 1,02 – 1,1) khi so sánh với nhóm tham khảo ở bà mẹ ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai. Còn ở phân nhóm nhỏ, chưa từng sử dụng OCs làm tăng nguy cơ dị tật hệ sinh dục (ORs hiệu chỉnh 1,17, 95% Cl 1,05 – 1,32), thần kinh (ORs hiệu chỉnh 1,24, 95% Cl 1,05 -1,45), tiêu hóa (ORs hiệu chỉnh 1,16, 95% Cl 1,00 – 1,33) và làm giảm nguy cơ dị tật thành bụng thai nhi (ORs hiệu chỉnh 0,51, 95% Cl 0,32 – 0,79).
Bàn luận và kết luận:
- Nghiên cứu không có một mô hình phân tích thống kê mạnh và thông tin về sử dụng axit folic.
- Nghiên cứu cho thấy việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống trước và sau khi có thai không làm tăng nguy cơ các dị tật thai nhi lớn. Phụ nữ mong muốn có thai sau khi ngưng dùng OCs, thì việc tiếp xúc với OCs không gây nên bất cứ dị tật nào trên thai nhi. Kết quả từ nghiên cứu thêm một bằng chứng cho thấy không có sự liên quan giữa việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống và dị tật thai nhi.
Tài liệu tham khảo:
- Một nghiên cứu quan sát thuần tập tiến cứu lớn (Brittany M Charlton và cs, 2015) được thực hiện ở Đan Mạch, dữ liệu về việc sử dụng OCs và những dị tật thai nhi lớn được thu thập từ năm 1997 đến năm 2011. Đánh giá ảnh hưởng của việc dùng OCs trong thời gian gần hoặc trong lúc có thai và các dị tật thai nhi lớn được theo dõi trong 1 năm (các dị tật lớn dựa theo phân loại của European Surveillance of Congenital Anomalies). Sử dụng mô hình hồi quy để tính toán tỉ số Odd (ORs) về nguy cơ dị tật ở mỗi nhóm và phân nhóm nhỏ.
Kết quả:
- Trong số 880.694 trẻ sinh ra được theo dõi, 2,5% (n=22013) số trẻ có dị tật thai nhi lớn phát hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống. Hơn hai phần ba bà mẹ (69%, n=611.007) đã sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống nhưng ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai, 21% số bà mẹ (n = 183.693) chưa bao giờ sử dụng OCs, 8% bà mẹ vừa ngưng sử dụng OCs trước khi có thai (0 - 3 tháng) và 1% sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Tỉ lệ trẻ có dị tật lớn ở nhóm bà mẹ chưa bao giờ sử dụng OCs là 25,1%, 25% ở nhóm bà mẹ ngưng hơn 3 tháng trước khi có thai (nhóm tham khảo), 24,9% ở nhóm vừa ngưng OCs trước khi có thai và 24,8% ở nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai.
- Phân tích kết cục chính của nghiên cứu cho thấy nguy cơ dị tật thai nhi lớn không tăng ở những nhóm tiếp xúc với OCs bao gồm nhóm bà mẹ vừa ngưng OCs trước khi có thai (OR 0,98, 95% Cl 0,93 – 1,03) và nhóm sử dụng OCs trong lúc mang thai (OR 0,95, 95% Cl 0,84 – 1,08).
- Phân tích phân nhóm của nghiên cứu cho thấy nguy cơ tăng các dị tật thai nhi lớn ở các phân nhóm nhỏ không có ý nghĩa thống kê (như hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ hô hấp...). Tất cả các chỉ số ORs so sánh giữa nhóm tiếp xúc và không tiếp xúc với OCs đều nhỏ hơn 1,15, ngoại trừ khuyết tật thành bụng. Nghiên cứu cũng đánh giá nguy cơ ở một số khuyết tật như thoát vị thành bụng (ORs 0,84, 95% Cl 0,26-2,68)) và hội chứng thiểu sản tim trái (ORs 2,47, 95% Cl 0,77 – 7,97) và các nguy cơ đều không có ý nghĩa thống kê.
- Ngược lại, ở nhóm bà mẹ không bao giờ sử dụng OCs lại tăng nhẹ nguy cơ mắc các dị tật thai nhi lớn (OR 1,06, 95% Cl 1,02 – 1,1) khi so sánh với nhóm tham khảo ở bà mẹ ngưng thuốc hơn 3 tháng trước khi có thai. Còn ở phân nhóm nhỏ, chưa từng sử dụng OCs làm tăng nguy cơ dị tật hệ sinh dục (ORs hiệu chỉnh 1,17, 95% Cl 1,05 – 1,32), thần kinh (ORs hiệu chỉnh 1,24, 95% Cl 1,05 -1,45), tiêu hóa (ORs hiệu chỉnh 1,16, 95% Cl 1,00 – 1,33) và làm giảm nguy cơ dị tật thành bụng thai nhi (ORs hiệu chỉnh 0,51, 95% Cl 0,32 – 0,79).
Bàn luận và kết luận:
- Nghiên cứu không có một mô hình phân tích thống kê mạnh và thông tin về sử dụng axit folic.
- Nghiên cứu cho thấy việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống trước và sau khi có thai không làm tăng nguy cơ các dị tật thai nhi lớn. Phụ nữ mong muốn có thai sau khi ngưng dùng OCs, thì việc tiếp xúc với OCs không gây nên bất cứ dị tật nào trên thai nhi. Kết quả từ nghiên cứu thêm một bằng chứng cho thấy không có sự liên quan giữa việc dùng thuốc ngừa thai dạng uống và dị tật thai nhi.
Bs Mai Đức Tiến
Tài liệu tham khảo:
1. Maternal use of oral contraceptives and risk of birth defects in Denmark: prospective, nationwide cohort study. BMJ 2016; 352 doi: http://dx.doi.org/10.1136/bmj.h6712.
2. Oral Contraceptive Use Before and During Pregnancy Appears Safe. Medscape Medical News Lara C. Pullen, PhD. January 07, 2016.
Từ khóa: Sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống không làm tăng nguy cơ dị tật thai nhi ngay cả lúc mang thai
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chế độ dinh dưỡng khi mang thai và cho con bú - Ngày đăng: 21-01-2016
Tiêm ngừa cúm trong thai kỳ là an toàn và cải thiện kết quả sản khoa - Ngày đăng: 19-01-2016
Ảnh hưởng việc làm ấm bệnh nhân trong cuộc mổ lấy thai: 1 phân tích gộp - Ngày đăng: 08-01-2016
Tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có thai sau Hỗ Trợ Sinh Sản - Ngày đăng: 21-12-2015
Hở sẹo mổ lấy thai cũ - Ngày đăng: 15-12-2015
Ối vỡ non - Ngày đăng: 15-12-2015
Nôn ói trong thai kì - Ngày đăng: 16-11-2015
Vai trò của DYDROGESTERONE trong điều trị dọa sẩy thai - Ngày đăng: 10-11-2015
Những sai lầm trong chẩn đoán và điều trị thai bám sẹo vết mổ cũ - Ngày đăng: 06-11-2015
Khuyến cáo cập nhật của I.O.M về tăng cân trong thai kỳ - Ngày đăng: 03-11-2015
Bổ sung Canxi làm giảm nguy cơ tiền sản giật và sinh non - Ngày đăng: 27-10-2015
Những tiên bộ mới trong tránh thai - Ngày đăng: 03-11-2015
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK