Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin chuyên ngành
on Monday 21-09-2015 5:44pm
Viết bởi: Administrator
BS Trần Thị Minh Châu


 
Những nghiên cứu dịch tễ từ những năm 1970-1990 đã báo cáo mối quan hệ nghịch giữa sử dụng thuốc viên tránh thai dạng uống (OCP) và nang buồng trứng chức năng được xác nhận bằng phẫu thuật. Từ đó, điều trị ngắn hạn với OCP được sử dụng để xử trí ban đầu đối với nang buồng trứng.
Tuy nhiên, các phân tích gộp đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt giữa việc sử dụng OCP và giả dược đối với kết quả điều trị nang buồng trứng và các khối này cần được theo dõi thêm vài chu kỳ kinh nguyệt. Nếu một khối dạng nang không tiêu biến đi sau khoảng thời gian này, nó không thể là nang chức năng, và những xét nghiệm chuyên sâu hơn có thể được chỉ định.
Nhiều bệnh nhân với nang buồng trứng đơn giản được phát hiện trên siêu âm không cần điều trị. Ở bệnh nhân đã mãn kinh, một nang đơn giản, tồn tại kéo dài, kích thước nhỏ hơn 5cm và giá trị CA125 bình thường có thể được theo dõi bằng siêu âm định kỳ. Một số bằng chứng cho thấy rằng nang lên đến 10cm cũng có thể được theo dõi an toàn theo cách này.
Phụ nữ tiền mãn kinh với nang đơn giản, không triệu chứng, nhỏ hơn 8cm trên siêu âm với giá trị CA125 nằm trong khoảng giới hạn tham chiếu, có thể được theo dõi và siêu âm lặp lại trong vòng 8-12 tuần. Như đã nói ở trên, liệu pháp hormon, bao gồm việc sử dụng OCP, không hữu ích trong việc điều trị các nang.

1.     Nang ở thai nhi và trẻ sơ sinh
Ở bé gái sơ sinh, nang buồng trứng là dạng thường gặp nhất của khối u ở bụng, với tỷ lệ mắc ước tính hơn 30%.
Nang buồng trứng ở thai nhi được cho là gây ra bởi kích thích nội tiết tố, chẳng hạn như gonadotropins của thai, estrogen của mẹ và hCG của nhau. Ngoài ra, mối liên hệ giữa nang buồng trứng của thai và bệnh đái tháo đường của mẹ và suy giáp thai nhi đã được xác định.
Hầu hết nang buồng trứng của thai nhi đều nhỏ và trở về bình thường trong vòng vài tháng đầu đời và không có ý nghĩa lâm sàng. Chúng thường được chẩn đoán ở tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ, và hầu hết có xu hướng tiêu biến đi vào 2-10 tuần sau sanh.
Chẩn đoán phân biệt của các nang này bao gồm nang niệu rốn, bất thường ruột đôi, u quái và tắc ruột. Hình ảnh siêu âm trong tử cung là cần thiết để phân biệt nang buồng trứng với những khả năng khác.
Việc chọc hút những nang này có thể được thực hiện nhưng liên quan với các biến chứng, chẳng hạn như tái thành lập nang, nhiễm trùng và sanh non.
Sau khi chẩn đoán nang buồng trứng thai nhi, điều quan trọng là thực hiện siêu âm định kỳ để phát hiện bất kỳ thay đổi cấu trúc nào về kích thước hoặc hình dạng hoặc biến chứng, chẳng hạn như đa ối, báng bụng, hoặc xoắn.
Trong số những biến chứng, xoắn buồng trứng là biến chứng nghiêm trọng nhất của nang buồng trứng thai nhi và có thể biểu hiện tim thai nhanh do phúc mạc bị kích thích.
Xử trí thích hợp bao gồm siêu âm định kỳ để tìm kiếm dấu hiệu của sự thoái triển hoặc phẫu thuật sau khi sanh nếu nang phức tạp hoặc đường kính lớn hơn 5 cm.

2.     Nang buồng trứng trong thai kỳ
Hoàng thể chịu trách nhiệm sản xuất progesterone trong thai kỳ và thường thoái triển ở tuổi thai khoảng 8 tuần.
Hầu hết các nang liên quan đến thai kỳ, chẳng hạn như hoàng thể và nang noãn, tiêu biến vào khoảng tuổi thai 14-16 tuần và đáp ứng với hormone, cho phép điều trị bảo tồn. Trước tuổi thai 16-20 tuần, khoảng 96% các khối này tiêu biến một cách tự nhiên. Nang đơn giản có đường kính nhỏ hơn 6 cm, có nguy cơ ác tính ít hơn 1%.
Nang hoàng thể có xu hướng lớn hơn và có triệu chứng nhiều hơn nang noãn và có nguy cơ xuất huyết và vỡ nhiều hơn. Nang noãn thường nhỏ hơn, với xuất huyết trong nang tương đối không phổ biến.
Những khối tồn tại lâu hơn có thể cần thêm nhiều xét nghiệm đánh giá tân sinh tiềm ẩn, dựa trên những phát hiện lâm sàng và bằng chứng hình ảnh học. Xét nghiệm CA125 trong huyết thanh không được khuyến cáo thực hiện trong thời kỳ mang thai, vì nồng độ của nó có thể dao động lớn trong thai kỳ bình thường, đặc biệt là trong tam cá nguyệt đầu tiên và thứ hai, và có thể tăng lên trong nhiều trường hợp lành tính. Một nhóm nghiên cứu đề nghị theo dõi, và phẫu thuật sau sanh ở những bệnh nhân chọn lọc, có khối u phần phụ lớn, tồn tại kéo dài mà kết quả siêu âm không gợi ý nhiều là ác tính. Tuy nhiên, trong trường hợp nang có triệu chứng, bao gồm gây đau và khó chịu, hoặc tốc độ lớn nhanh qua những lần siêu âm định kỳ, phẫu thuật cắt bỏ nên được xem xét.
Nếu khối u có khả năng ác tính và có thể phải phẫu thuật trong giai đoạn chu sinh, thì nguy cơ làm hại đến thai được cân nhắc nên có thể phải trì hoãn điều trị; nhưng phẫu thuật thường được trì hoãn cho đến giữa tam cá nguyệt thứ hai, khi hầu hết các nang đã thoái triển.
Một số tình trạng của buồng trứng chỉ có khi mang thai bao gồm: buồng trứng được kích thích quá mức, hội chứng quá kích buồng trứng, nang hoàng tuyến và nang hoàng thể thai kỳ. Buồng trứng quá kích đại diện cho phản ứng buồng trứng bình thường với mức hCG lưu hành trong máu và thường thấy ở những phụ nữ đã trải qua quá trình kích thích rụng trứng.

3.     Nang buồng trứng sau mãn kinh
Hầu hết các nghiên cứu ước tính tỷ lệ lưu hành của nang phần phụ đơn giản, đơn thùy, không có triệu chứng ở phụ nữ mãn kinh là 3-18%, với đa số các nang nhỏ hơn 5 cm đường kính.
Những nghiên cứu trước đây cho thấy nguy cơ ác tính cho các nang phần phụ không triệu chứng này ở bệnh nhân đã mãn kinh là khá cao 7%, nhưng các nghiên cứu sau đó cho thấy tỷ lệ ít hơn 1% đối với nang nhỏ.
Ở những bệnh nhân này, siêu âm lặp lại sau 4-6 tuần có thể được thực hiện cùng với xét nghiệm CA125 đối với bệnh nhân ngoại trú. Một nửa số nang không triệu chứng nhỏ hơn 5 cm thoái triển sau 2 tháng, nhưng nếu nồng độ CA125 tăng hoặc kích thước nang tăng hoặc nang phức tạp thì có thể cần phải phẫu thuật.
Việc theo dõi là quan trọng, vì nguy cơ ác tính của một khối u tân sinh buồng trứng tăng từ 13% ở bệnh nhân tiền mãn kinh đến 45% ở bệnh nhân mãn kinh.
Cắt buồng trứng 2 bên và thường đi kèm cắt tử cung được thực hiện ở nhiều phụ nữ mãn kinh có nang buồng trứng do sự gia tăng tỉ lệ ung thư trong dân số này.

4.     Mổ hở và nội soi ổ bụng
Những nang buồng trứng đơn giản, tồn tại kéo dài, lớn hơn từ 5-10 cm, đặc biệt là nếu có triệu chứng và nang buồng trứng phức tạp cần được xem xét phẫu thuật cắt bỏ. Các phương pháp phẫu thuật bao gồm mổ hở và nội soi xâm lấn tối thiểu với vết mổ rất nhỏ. Dù phương pháp nào được sử dụng, mục tiêu vẫn như nhau, bao gồm:
• Xác định chẩn đoán nang buồng trứng.
• Đánh giá xem liệu nang có khả năng ác tính hay không.
• Lấy dịch rửa phúc mạc để đánh giá tế bào học.
• Lấy toàn bộ nang còn nguyên vẹn để phân tích giải phẫu bệnh - Điều này có nghĩa là có thể phải cắt bỏ toàn bộ buồng trứng.
• Đánh giá buồng trứng bên kia và những cơ quan trong ổ bụng khác.
• Thực hiện phẫu thuật bổ sung nếu có chỉ định.
Việc sử dụng kỹ thuật nội soi đang trở nên rất phổ biến, và chỉ định đang được mở rộng. Phẫu thuật nội soi được lựa chọn nhiều hơn mổ hở khi có chỉ định bởi vì ít tác dụng phụ hơn cho bệnh nhân và hồi phục nhanh hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là kết quả thu được không hề thua kém mổ hở.
Một số bệnh nhân, bao gồm những người có bệnh phổi mạn tính, không có khả năng chịu được áp lực trong ổ bụng cao hay tư thế đầu chúc xuống dưới, không thích hợp cho phẫu thuật nội soi. Những bệnh nhân khác nếu từng phẫu thuật trước đó gây dính nặng thì cũng không phù hợp. Đối với nhiều tình huống, điều quan trọng nhất là kỹ năng và kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
Với nang lành tính, không có chống chỉ định tuyệt đối cho việc sử dụng phẫu thuật nội soi. Những bệnh nhân này, bao gồm những bệnh nhân được chẩn đoán là có nang dạng bì (dermoid cyst) hoặc nang lạc nội mạc tử cung, những bệnh nhân có nang chức năng hay nang đơn giản có triệu chứng và không thoái triển sau khi điều trị bảo tồn, và những bệnh nhân có các triệu chứng cấp tính. Mục đích là để loại bỏ nguyên vẹn tất cả các nang, nhưng nếu điều này là không thể thì nang và/hoặc phần buồng trứng bị ảnh hưởng có thể được đặt trong một túi bảo vệ, cho phép các nang vỡ và thoát dịch mà không gây nhiễm trùng trước khi bị cắt bỏ.
Nang buồng trứng ác tính liên quan đến những bệnh thường gặp, thường được xử trí bằng cách mổ hở.
Có một số tranh cãi liên quan đến phương pháp phẫu thuật cho nang buồng trứng rất lớn, có đặc điểm biểu hiện lành tính. Cách tiếp cận truyền thống là mổ đường giữa bụng với vết mổ dài, cho phép loại bỏ nguyên vẹn các nang và buồng trứng. Hiện nay, một số đề nghị nội soi và dẫn lưu các nang, cho phép cắt bỏ buồng trứng thông qua một vết mổ rất nhỏ. Phương pháp này có nhược điểm là các nang có khả năng lan tràn tế bào ung thư vào trong khoang bụng. Phẫu thuật nội soi hiện nay được sử dụng để loại bỏ nang ung thư buồng trứng kích thước nhỏ đến trung bình (lên đến khoảng 12 cm) và đến phân độ giai đoạn ung thư buồng trứng.
Việc cắt bỏ một nang lành tính đơn độc - như nang dạng bì hoặc nang chức năng hoặc nang lạc nội mạc tử cung - và bảo tồn buồng trứng, có thể được thực hiện ở những bệnh nhân mong muốn giữ lại buồng trứng của họ cho khả năng sinh sản trong tương lai hoặc vì lý do khác.
Nếu nang buồng trứng là lành tính, việc loại bỏ buồng trứng đối diện nên được xem xét đối với phụ nữ mãn kinh, tiền mãn kinh, lớn hơn 35 tuổi, đã có gia đình và được chẩn đoán là tăng nguy cơ di truyền cho sự phát triển ung thư buồng trứng sau đó. Những chỉ định đều là tương đối, và tất cả các vấn đề cần được thảo luận với bệnh nhân trước khi phẫu thuật.
Nên có một chuyên gia về ung thư phụ khoa để giúp đỡ những bệnh nhân phải trải qua phẫu thuật cho một nang buồng trứng có khả năng ác tính. Bất cứ khi nào có thể, bệnh nhân nên tham khảo ý kiến ​​các chuyên gia trước khi phẫu thuật để giải quyết tất cả các vấn đề. Điều này sẽ cho phép thực hiện phẫu thuật thích hợp trên những bệnh nhân bị phát hiện ung thư.

5.     Việc ngăn chặn và phòng ngừa
Hiện nay, sử dụng thuốc tránh thai đường uống ngăn ngừa sự phát triển của nang chức năng buồng trứng. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, nang chức năng không thoái triển nhanh hơn khi điều trị bằng thuốc tránh thai kết hợp đường uống, vì vậy OCP không nên được sử dụng cho mục đích đó.
Sử dụng OCP trong vòng 15 năm làm giảm nguy cơ carcinom nang tuyến biểu mô buồng trứng (epithelial ovarian cystadenocarcinoma). Không có xét nghiệm tầm soát chung có sẵn cho carcinom nang tuyến biểu mô buồng trứng, nhưng phụ nữ có nguy cơ cao dựa trên tiền sử gia đình hoặc tiền sử ung thư vú nên được siêu âm định kỳ hằng năm và xét nghiệm CA125. Giới thiệu để được tư vấn di truyền nên được xem xét.
Phụ nữ có nguy cơ cao đối với carcinom nang tuyến biểu mô buồng trứng có thể được cắt buồng trứng dự phòng, để ngăn chặn sự phát triển của ung thư buồng trứng nhưng không ngăn chặn được ung thư phúc mạc.

6.     Hội chẩn
Các cuộc hội chẩn sau đây cần được thực hiện với:
• Chuyên gia về nội tiết sinh sản và vô sinh - đối với lạc nội mạc tử cung và hội chứng buồng trứng đa nang.
• Chuyên gia về ung thư phụ khoa - đối với bất kỳ nang buồng trứng phức tạp hoặc khối u phần phụ, đặc biệt nếu nồng độ CA125 huyết thanh tăng lên trên 35 U/mL và bệnh nhân có tiền sử gia đình ung thư buồng trứng.
• Bác sĩ phẫu thuật tổng quát - tham khảo ý kiến ​​bác sĩ phẫu thuật tổng quát tại phòng cấp cứu khi biểu hiện lâm sàng cho thấy phản ứng phúc mạc mà không rõ ràng là của chuyên ngành sản phụ khoa.
• Bác sĩ sản phụ khoa - khi nghi ngờ tình trạng cấp cứu có liên quan đến buồng trứng, tử cung hoặc thai.
Việc hội chẩn là bắt buộc để đẩy nhanh bệnh nhân có huyết động không ổn định vào phòng mổ, trong khi hồi sức ban đầu tại phòng cấp cứu được tiến hành.

7.     Theo dõi dài hạn
Thời gian điều trị ngoại trú cho bệnh nhân có nang buồng trứng phụ thuộc vào độ tuổi và tình trạng mang thai. Ở những bệnh nhân có thai, đa số nang buồng trứng thoái triển ở tuổi thai 16-20 tuần.
Những bệnh nhân có nang buồng trứng biểu hiện lành tính, đơn thùy và đường kính nhỏ hơn 5-6 cm, không cần tiếp tục theo dõi sát các nang trong suốt thai kỳ và chỉ cần khám thường quy trước sanh. Ở những bệnh nhân không mang thai và ở những bệnh nhân sau khi mang thai, những nang như vậy có thể được theo dõi bằng siêu âm định kỳ.
Nếu nang lớn hơn 5-6 cm hoặc đa nang, bệnh nhân phải được theo dõi bằng siêu âm ở tuổi thai 16 tuần để có thời gian cho nang thoái triển. Khối u phức tạp, tồn tại kéo dài có thể được mô tả chính xác hơn bằng MRI, thực hiện trong hoặc sau khi mang thai, tìm kiếm các đặc điểm phân biệt để hướng dẫn chẩn đoán.
Nang buồng trứng gợi ý nhiều là ác tính hoặc có đường kính lớn hơn 8-10 cm, có triệu chứng, hoặc tăng nguy cơ xoắn, vỡ, hoặc gây tắc nghẽn chuyển dạ có khả năng cao cần phải can thiệp phẫu thuật; đòi hỏi bác sĩ sản khoa theo dõi cấp bách hơn, và có thể hội chẩn đa chuyên khoa một cách kịp thời.
Nếu cần phải phẫu thuật, thuận lợi nhất là thực hiện vào đầu tam cá nguyệt thứ hai, vì nguy cơ sẩy thai tự nhiên trong giai đoạn này là thấp hơn so với tam cá nguyệt một. Nó cũng tốt hơn can thiệp phẫu thuật trong tam cá nguyệt thứ ba, để tránh gây sanh non và để tránh các vấn đề kỹ thuật khi tử cung lớn hơn.
Ở những bệnh nhân hậu sản, kích thước và độ phức tạp của nang buồng trứng và nồng độ CA125 được sử dụng để quyết định xử trí. Nang đơn thùy, nhỏ hơn 5 cm đường kính nên được theo dõi bằng siêu âm ngả âm đạo và xét nghiệm CA125 mỗi 6 tháng. Nang buồng trứng phức tạp, nhỏ hơn 5 cm đường kính với CA125 bình thường (định nghĩa là <35 U/mL) cần được theo dõi trong 4 tuần với siêu âm và xét nghiệm CA125 lặp lại. Phẫu thuật có thể được chỉ định cho các khối u buồng trứng phức tạp nhỏ hơn 5 cm đường kính khi nồng độ CA125 tăng lên (> 35 U/mL) và cho các khối u phức tạp lớn hơn 5 cm đường kính.
Các nghiên cứu đã sử dụng khung thời gian khác nhau làm chỉ điểm cho sự thoái triển nang ở bệnh nhân không có thai, tiền mãn kinh. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy nang thoái triển trong khoảng 2-3 tháng, do đó cần siêu âm kết hợp với khám phụ khoa hoặc không cần khám phụ khoa ở những bệnh nhân này
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 20-05-2015
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK