Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 09-05-2025 2:38am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phạm Bích Vân - Tâm Anh

Đánh giá tình trạng nguyên bội của phôi tiền làm tổ rất quan trọng đối với sự thành công của chuyển phôi và tỉ lệ sinh sống sau khi chuyển. Các phôi lệch bội có thể do lỗi trong quá trình phân chia tế bào, nhưng phần lớn dữ liệu hiện tại về lệch bội đều đến từ từ việc xét nghiệm các tế bào được sinh thiết từ phôi bào hoặc lớp tế bào lá nuôi phôi. Do sự thiếu hụt các điểm kiểm soát trong chu kỳ tế bào ở giai đoạn sớm, phôi người thường gặp phải nhiều lỗi phân bào, những lỗi này thường dẫn đến sự hình thành phôi khảm với các tế bào mang các bộ nhiễm sắc thể khác nhau. Mặc dù có nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ khảm cao ở phôi giai đoạn phân chia chiếm khoảng 73% nhưng tỉ lệ khảm giảm còn 2 - 25% ở mẫu sinh thiết từ tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE), có sự khác biệt đáng kể so với dữ liệu chẩn đoán trước sinh, vốn cho thấy tỉ lệ khảm ở nhau thai dưới 2% và tỉ lệ khảm ở trẻ sinh ra dưới 0,2%.Sự không đồng nhất này làm dấy lên tranh luận về việc liệu hiện tượng khảm được phát hiện có phản ánh chính xác tỉ lệ thực tế hay là kết quả của sai số kỹ thuật. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các tế bào sinh thiết có thể không đại diện cho toàn bộ phôi, và cần phải nghiên cứu trên toàn bộ phôi để đưa ra kết luận chính xác. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp giải trình tự thế hệ mới (next-generation sequencing - NGS) để phân tích toàn bộ 221 phôi từ các giai đoạn phát triển khác nhau, bao gồm phôi nang chất lượng cao, phôi nang ngày 6 phát triển chậm và phôi nang ngừng phát triển. Mục đích là tìm hiểu tình trạng di truyền của phôi ở tất cả các giai đoạn phát triển và đưa ra những kết luận lâm sàng có ý nghĩa trong việc lựa chọn phôi để chuyển.

Phương pháp:
Nghiên cứu sử dụng 221 phôi từ hai nhóm: nhóm A gồm 117 phôi từ 15 cặp vợ chồng đã sinh con thông qua IVF, và nhóm B gồm 33 bệnh nhân và các phôi này được tạo ra bằng IVF hoặc ICSI và được nuôi cấy đến 6 ngày sau thụ tinh. Các phôi ở giai đoạn phân chia được đánh giá theo tiêu chuẩn Istanbul và Vienna, còn các phôi ở giai đoạn phôi nang được đánh giá theo tiêu chí của Gardner và Schoolcraft. Vào ngày 6, các phôi được xử lý để phân tích di truyền bằng cách loại bỏ zona pellucida và sử dụng kỹ thuật MDA (Multiple displacement amplification). Các mẫu DNA sau đó sẽ được giải trình tự bằng Illumina MiSeq để xác định được các biến dị số lượng bản sao (CNVs - The chromosomal copy number variants). Phôi được phân loại là nguyên bội, lệch bội hoặc khảm dựa trên tỉ lệ tế bào lệch bội.

Kết quả:
  • Tỉ lệ nguyên bội và bất thường nhiễm sắc thể:
Trong nhóm A, 117 phôi chất lượng tốt ở ngày 3 được nuôi đến ngày 6, trong đó 41 phôi phát triển thành phôi nang chất lượng tốt (tỉ lệ nguyên bội là 82,9%), 21 phôi nang chất lượng thấp và 55 phôi bị ngừng phát triển. Nhóm B gồm 180 phôi còn lại sau khi đã sử dụng hết phôi nang chất lượng tốt cho mục đích lâm sàng, bao gồm 57 phôi nang chất lượng thấp (tỉ lệ nguyên bội là 38,6%) và 123 phôi ngừng phát triển (tỉ lệ nguyên bội là 13%). Tỉ lệ nguyên bội của phôi nang chất lượng thấp thay đổi theo các giai đoạn phát triển, từ 15,4% ở giai đoạn I–II đến 45,5% ở giai đoạn III–V
  • Đặc điểm  bất thường nhiễm sắc thể:
Nghiên cứu phát hiện 36 phôi có lệch bội toàn bộ một nhiễm sắc thể đơn lẻ (single whole-chromosome aneuploidy), chủ yếu liên quan đến nhiễm sắc thể số 22, và 11 phôi có lệch bội toàn bộ hai nhiễm sắc thể (double whole-chromosome aneuploidies) chủ yếu liên quan đến nhiễm sắc thể giới tính. Ngoài ra, có 68 phôi với lệch bội phức tạp hỗn độn (chaotic aneuploidies), khi ba hoặc nhiều nhiễm sắc thể bị mất hoặc thừa ngẫu nhiên. Trong tổng số 211 phôi, có 55 phôi (26,1%) bị lệch bội đoạn nhiễm sắc thể (NST), với đa số phôi có một hoặc hai điểm gãy. Các điểm gãy được phân thành các kiểu nhân đôi NST hoặc mất đoạn NST, kiểu nhân đôi một đầu và mất một đầu, kiểu hình chữ U , trong đó hai loại phổ biến là kiểu nhân đôi đoạn NST chiếm 30,6% và mất đoạn NST chiếm 54,2%.
  • Mối liên hệ giữa chất lượng phôi và tỉ lệ nguyên bội:
Trong 19 phôi nang, những phôi có khối tế bào nội mô (Inner Cell Mass – ICM) hoặc tế bào lá nuôi (Trophectoderm – TE) không được đánh độ C thì có tỉ lệ nguyên bội cao hơn đáng kể là 89,5%. Ngược lại, những khối tế bào TE và ICM được đánh độ C thì tỉ lệ nguyên bội chiếm 77,2%, mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Bàn luận:
Đây là nghiên cứu đầu tiên ứng dụng kỹ thuật phân tích toàn bộ phôi với cỡ mẫu lớn, bao quát các giai đoạn phát triển trước khi làm tổ. Kết quả cho thấy tỉ lệ phôi nang nguyên bội vượt quá 80%, trong khi tỉ lệ khảm nhiễm sắc thể rất thấp chỉ khoảng 2,5%, một con số tương phản rõ rệt với các nghiên cứu sinh thiết TE nơi tỉ lệ này dao động từ 2% đến hơn 25%. Sự khác biệt này có thể bắt nguồn từ sai số kỹ thuật trong quá trình sinh thiết TE hoặc do trong phân tích toàn phôi, các tế bào bình thường đã "che khuất" sự hiện diện của các tế bào bất thường mức thấp. Ngoài ra, khả năng tự loại bỏ tế bào bất thường trong quá trình phát triển cũng góp phần nâng cao tỉ lệ nguyên bội thực sự khi đánh giá toàn bộ phôi.
Đáng chú ý, nghiên cứu chỉ ra rằng các phôi nang ngày 6 chất lượng thấp nhưng đạt đến giai đoạn III vẫn có tỉ lệ nguyên bội lên đến 50%, cho thấy nên tiếp tục nuôi cấy các phôi này đến ngày 7 nếu chưa đủ điều kiện chuyển. Ngược lại, các phôi ngừng phát triển sớm thường liên quan đến rối loạn phân bào nghiêm trọng, với tỉ lệ hỗn loạn lên đến 87–94%.
Nghiên cứu cũng ghi nhận tỉ lệ bất thường đoạn nhiễm sắc thể là 4,9%, thấp hơn đáng kể so với các báo cáo trước đó (8,4% đến 16%) với điểm gãy chủ yếu tập trung ở vùng 1q2. Đặc biệt, một phát hiện mới là dạng gãy nhiễm sắc thể hình chữ “U”, trong đó hai điểm gãy nằm trên cùng một nhiễm sắc thể nhưng phần đoạn giữa vẫn còn nguyên vẹn. Cấu trúc này có thể được ổn định thông qua việc bổ sung telomere hoặc bất hoạt centromere.

Kết luận:
Các phát hiện trên không chỉ làm nổi bật những hạn chế của sinh thiết TE trong đánh giá toàn diện phôi, mà còn gợi mở hướng tiếp cận mới trong việc cân nhắc giữ lại các phôi chậm phát triển hoặc được chẩn đoán là khảm, đặc biệt khi không có phôi nguyên bội thay thế.

Nguồn: XU, Jian, et al. Biopsy vs comprehensive embryo/blastocyst analysis: a closer look at embryonic chromosome evaluation. Human Reproduction Open, 2025, 2025.2: hoaf013.
 
 

 


 

Các tin khác cùng chuyên mục:
HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK