Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 25-09-2010 7:48am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin cộng đồng

tb ung thuUng thư phụ khoa là cụm từ dành chung cho các ung thư xuất phát từ phần phụ của nữ giới. Tuy là phần phụ như người ta quen dùng trước đây nhưng đây là cơ quan chính có chức năng sinh sản gồm các bộ phận quan trọng: buồng trứng, vòi trứng, tử cung (dạ con), cổ tử cung, âm đạo và bộ phận sinh dục ngoài. Việc phát hiện sớm các ung thư phụ khoa còn gặp nhiều khó khăn do vị trí nằm sâu của các bộ phận như buồng trứng, tử cung, bệnh tiến triển thầm lặng đến khi người phụ nữ nhận thấy thì đã ở giai đoạn muộn. Một yếu tố quan trọng khác là phụ nữ đặc biệt phụ nữ Á Đông thường ngại, xấu hổ khi đi khám phụ khoa.

Những tiến bộ trong phòng và phát hiện sớm ung thư phụ khoa

Những nỗ lực gần đây của các nhà khoa học đã giúp cho việc phòng và phát hiện sớm các ung thư phụ khoa thuận lợi hơn. Những tiến bộ rõ rệt thuộc về phòng và phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Trong thập kỷ qua, người ta đã biết được một trong những nguyên nhân quan trọng của ung thư cổ tử cung là nhiễm virut gây u nhú ở người (Human Papilloma Virus- HPV). HPV lây truyền chủ yếu qua đường tình dục. Có tới hơn 80 loại HPV nhưng chỉ có 13 loại có liên quan với ung thư cổ tử cung. Sau khi HPV xâm nhập vào các tế bào của cổ tử cung, chúng làm biến đổi các tế bào này, trải qua nhiều năm các tế bào mới chuyển thành ác tính. Việc phát hiện sớm nhiễm các HPV liên quan đến ung thư cổ tử cung là cần thiết để phòng ngừa căn bệnh này. Mới đây, các nhà khoa học đã dùng phương pháp sinh học phân tử tìm DNA để kiểm tra người phụ nữ có bị nhiễm bất kỳ loại nào trong 13 loại HPV nói trên. Phương pháp đặc biệt có ích khi kết hợp với xét nghiệm phết Pap. Khi xét nghiệm này cho biết nhiễm HPV và xét nghiệm phết Pap cho thấy biến đổi tế bào dù nhẹ, người phụ nữ đó cũng cần điều trị tích cực (soi cổ tử cung, phẫu thuật thích hợp). Nếu chỉ nhiễm HPV gây ung thư, xét nghiệm phết Pap bình thường, người phụ nữ đó cũng cần theo dõi sát.

Một bước tiến nữa liên quan tới HPV là việc nghiên cứu bào chế vaccin phòng nhiễm virut này, từ đó có thể phòng ngừa ung thư cổ tử cung. Người ta đang thử nghiệm vaccin cho các loại HPV có khả năng gây ung thư cổ tử cung nhiều nhất.

co tu cung

Các nhà khoa học cũng đã tìm cách cải tiến phương pháp tìm tế bào ác tính của cổ tử cung. Trong xét nghiệm phết Pap hiện nay, người ta lấy một que dẹt chuyên dụng gạt lấy chất nhầy ở cổ tử cung, phết trực tiếp lên phiến kính, nhuộm và soi trên kính hiển vi nhằm tìm tế bào bất thường. Mặc dù phương pháp đã giúp ích rất nhiều trong việc chẩn đoán sớm ung thư cổ tử cung nhưng cũng còn một số hạn chế. Các chất nhày cùng với mủ, máu, tạp chất bẩn đã làm mờ các tế bào cùng với việc dàn mỏng không đủ, các tế bào có thể chồng lên nhau khiến cho bác sĩ chẩn đoán khó khăn, kết quả có thể bị sai sót. Với xét nghiệm Pap dùng dung dịch (liquid-based Pap test hoặc liquid - based cytology), chất nhầy cổ tử cung cũng được lấy bằng que dẹt nhưng cho vào một lọ dung dịch, gửi tới phòng xét nghiệm. Tại đây, sau khi xử lý loại bỏ tạp chất, các tế bào được dán vào phiến kính và soi trên kính hiển vi. Phương pháp không chỉ giảm sai sót khi đọc mà còn giúp giảm tỉ lệ phụ nữ cần làm lại xét nghiệm. Khi bị gọi để xét nghiệm lại, mọi người thường hoang mang, lo lắng.

Ung thư cổ tử cung

Đối với ung thư nội mạc tử cung - loại ung thư xuất phát từ lớp lót trong của dạ con, các nhà nghiên cứu đang đi sâu tìm hiểu về di truyền học phân tử. Trước đây, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng những phụ nữ ở những gia đình có hội chứng ung thư đại tràng không phải polýp (Hereditary Nonpolyposis Colon Cancer - HNPCC) là những người có nguy cơ cao bị ung thư nội mạc tử cung. Gần đây, người ta thấy những thay đổi hoặc mất ổn định của DNA là khâu sinh bệnh quan trọng. Một gen mới được tìm thấy có tên PTEN là gen bình thường giúp ức chế khối u phát triển. Khi gen này bị hỏng hóc dù một phần cũng có thể gây ung thư nội mạc tử cung. Một gen khác liên quan đến bộ phận tiếp nhận tác dụng của progesteron (một chất nội tiết ở nữ), khi bị biến đổi cũng làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Người ta cũng thấy các gen khác như p53, Rb cũng góp phần vào quá trình diễn biến bệnh. Việc xét nghiệm di truyền học có thể giúp phòng ngừa, phát hiện sớm bệnh. Chúng ta hy vọng trong tương lai không xa, bằng phương pháp điều trị gen, các thầy thuốc có thể sửa chữa những sai sót của DNA có thể gây ung thư nội mạc tử cung nói riêng và các ung thư khác nói chung để phòng bệnh.

Ung thư buồng trứng

Vốn được coi là kẻ giết người thầm lặng bởi khi khối u nhỏ, người bệnh không thấy bất thường nên không đi khám. Hiện tại, người ta sử sụng CA-125, một chất tăng lên trong máu khi có ung thư buồng trứng nhưng cũng tăng lên khi có những ung thư khác và một số bệnh lành tính. Do vậy, CA-125 ít giúp ích cho phát hiện bệnh sớm. Các nhà nghiên cứu đang hướng đến việc tìm chất khác như lysophosphatidic acid (LPA), osteopontin để chẩn đoán sớm và theo dõi ung thư buồng trứng. Xét nghiệm di truyền tìm các đột biến ở các gen BRCA1 và BRCA2 là một cách phòng bệnh ung thư buồng trứng. Những phụ nữ bị đột biến dòng mầm các gen này và đã hoàn thành việc sinh đẻ có thể chọn biện pháp cắt bỏ buồng-vòi trứng hai bên. Một phương pháp mới dùng máy phân tích tìm những thành phần protein (proteomics) do tế bào ung thư tiết ra phóng thích vào máu đang được nghiên cứu và tỏ ra rất có triển vọng trong chẩn đoán sớm ung thư buồng trứng.

Nguồn: Báo Sức khỏe và Đời sống.

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
Vì thế hệ tương lai - Ngày đăng: 26-03-2011
Có nên vừa mang thai vừa cho con bú? - Ngày đăng: 26-03-2011
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK