Tin tức
on Thursday 15-06-2017 8:41am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. BS. Lê Phạm Thu Hà
Bộ môn Nhi ĐHYD TP.HCM
Bệnh lý gan nhiễm mỡ không do rượu là một vấn đề nghiêm trọng và đang ngày càng tiến triển. Bệnh lý này đã được chứng tỏ có liên hệ từ trước với béo phì, và một nghiên cứu mới cũng đồng thời liên kết bệnh lý này với béo phì của bà mẹ - hàm ý rằng những gì bà mẹ đã ăn trong thai kỳ có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ gan của con trong tương lai.
Sức khoẻ gan của bạn có thể phụ thuộc vào những gì mẹ bạn đã ăn trong thai kỳ.
Bệnh lý gan nhiễm mỡ không do rượu (Non-alcoholic fatty liver disease – NAFLD) được đặc trưng bởi sự tích luỹ của mỡ trong các tế bào của gan. Mặc dù việc có mỡ trong gan là bình thường, nếu có một lượng dư thừa, điều này có thể dẫn tới sự thành lập sẹo gan và xơ gan. Xơ gan mô tả một quá trình trong đó các tế bào gan bị thay thế dần dần bởi tế bào sẹo, gây trở ngại cho khả năng gan làm việc một cách hiệu quả. NAFLD ước tính ảnh hưởng 20 tới 30% người ở các nước phương Tây, và mức độ này có vẻ đang trên đà gia tăng. Những cá nhân với đái tháo đường type 2 và béo phì bệnh lý là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất; trong những nhóm này, tỉ lệ của NAFLD tương ứng là 70 và 90%. Mặc dù một số yếu tố nguy cơ đã được biết đến, không phải lúc nào cũng hiểu rõ tại sao một người tiến triển tới NAFLD trong khi một người khác tương tự lại không. Do tỉ lệ hiện mắc của NAFLD ngày càng gia tăng, một số lượng lớn các nghiên cứu hiện đang được tiến hành với những nỗ lực để thiết lập một hiểu biết về các con đường bên dưới tình trạng này.
Nghiên cứu mới nhất này đến từ một nhóm đứng đầu bởi BS. Michael Thompson, một bác sĩ nội trú nội tiết nhi tại Bệnh viện Nhi Quốc gia ở Ohio, Hoa Kỳ. Các kết quả được trình bày tại Hội nghị Sinh học Thí nghiệm 2017, tổ chức ở Chicago, IL, Hoa Kỳ. Bằng cách sử dụng một mô hình chuột, nghiên cứu khám phá ảnh hưởng, nếu có, của một chế độ ăn giàu chất béo của bà mẹ trên sức khoẻ gan của thế hệ sau. BS. Thompson giải thích những lý do cho quyết định để bắt tay vào dự án lần này: “Những biến chứng của béo phì hiện đang là một gánh nặng chi phí đáng kể cho hệ thống y khoa, đặc biệt đối với tỉ lệ hiện mắc của béo phì. Việc hiểu biết về cách mà những phơi nhiễm bà mẹ ảnh hưởng tới bệnh lý liên quan béo phì như bệnh lý gan nhiễm mỡ không do rượu sẽ cho phép chúng ta phát triển các điều trị phòng ngừa chi phí thấp hơn để sử dụng trước hơn là chờ đợi các biến chứng ở cuối con đường”.
Khi phân tích dữ liệu, nhóm nghiên cứu tìm thấy rằng việc phơi nhiễm với một chế độ ăn giàu chất béo trong quá trình phát triển tạo ra những biến đổi trong gan tồn tại cho tới giai đoạn trưởng thành. Những biến đổi này vẫn còn tồn tại ngay cả khi thế hệ sau được cho ăn một chế độ ăn ít chất béo sau sinh. Nếu ảnh hưởng này được khẳng định lại trên con người, điều đó có nghĩa là một người nào đó có một cân nặng khoẻ mạnh vẫn có thể có nguy cơ cho NAFLD nếu mẹ của họ đã từng béo phì trong thai kỳ. Khi nhóm nghiên cứu khảo sát kỹ hơn dữ liệu, họ tìm thấy rằng nồng độ acid mật và các gen liên quan tới điều hoà acid mật đã bị ảnh hưởng ở thế hệ sau của những bà mẹ béo phì. Điều này gợi ý rằng thế hệ sau có thể có tắc nghẽn đường mật, một tình trạng trong đó dòng chảy bình thường của mật bị gián đoạn. “Nếu thế hệ sau của những bà mẹ béo phì có một nguy cơ tương tự cho việc tiến triển tới xơ hoá như chúng tôi quan sát được trên chuột, chúng tôi có thể dự đoán được ai sẽ tiến triển tới bệnh lý trầm trọng hơn. Việc biết ai là người có nguy cơ nhất cho bệnh lý trầm trọng hơn sẽ hướng dẫn chúng tôi về việc những bệnh nhân nào nên được điều trị tích cực hơn. Hơn thế nữa, việc hiểu biết các cơ chế sinh học liên quan đến nguy cơ gia tăng này có thể đưa tới những điều trị phòng ngừa” – BS. Michael Thompson phát biểu.
Các kết quả sẽ cần được khẳng định lại, nhưng chúng mở ra cánh cửa cho một số lượng lớn những câu hỏi mới. BS. Thompson và nhóm nghiên cứu hiện đang dự định tiến hành nghiên cứu để khảo sát sâu hơn nguy cơ của tiến triển bệnh lý. Bằng việc sử dụng mô hình chuột tương tự, họ cũng đồng thời thiết kế các nghiên cứu sẽ kiểm tra những điều trị phòng ngừa có thể áp dụng được trong thai kỳ hoặc chỉ một thời gian ngắn sau khi sinh.
(Nguồn: medicalnewstoday 4/2017)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nồng độ acid folic cao trong thai kỳ có thể làm giảm tăng huyết áp ở trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Những trẻ sơ sinh rất non tháng hưởng lợi nhiều nhất từ corticosteroids trước sinh - Ngày đăng: 15-06-2017
Phơi nhiễm với nicotine trước và sau sinh gây ra những khó khăn về thính giác ở trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Cung cấp đủ vitamin D trong thai kỳ giúp ngừa suyễn cho trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Chụp fcMRI não giúp tiên đoán những trẻ nhũ nhi sẽ mắc tự kỷ trong số những trẻ có nguy cơ cao - Ngày đăng: 15-06-2017
Herpes sinh dục trong thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ tự kỷ cho thế hệ sau - Ngày đăng: 17-05-2017
Thiếu vitamin A có thể gây Alzheimer khởi phát ngay từ giai đoạn bào thai - Ngày đăng: 17-05-2017
Nghiên cứu mới điều tra lý do tại sao những bà mẹ lớn tuổi lại gặp các biến chứng lúc sinh - Ngày đăng: 17-05-2017
Việc thụ thai vào mùa đông gia tăng nguy cơ đái tháo đường cho bà mẹ - Ngày đăng: 17-05-2017
Nằm ngửa thẳng lưng vào giai đoạn cuối thai kỳ có thể làm gia tăng nguy cơ thai chết lưu - Ngày đăng: 17-05-2017
Vị thành niên mang thai, ngừa thai và hoạt động tình dục - Ngày đăng: 10-05-2017
Điều trị nội tiết trong suy buồng trứng sớm - Ngày đăng: 10-05-2017
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
Năm 2020
JW Marriott Hotel & Suites Saigon (InterContinental Saigon), Chủ Nhật ngày ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
Y học sinh sản tập 57, Qúy I/2021 - Thai lạc chỗ
FACEBOOK