Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 08-06-2006 1:56pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin cộng đồng

Bác sĩ Hồ Mạnh Tường - Khoa Hiếm muộn BV Từ Dũ

Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) được thực hiện thành công từ nằm 1978, đến nay, trên thế giới đã có trên 1 triệu em bé ra đời.
Từ ICSI được viết tắt từ Intra-cytoplasmic Sperm Injection, có nghĩa là tiêm tinh trùng trực tiếp vào noãn để tạo phôi. Với kỹ thuật này, các nhà khoa học có thể tạo ra phôi mà chỉ cần duy nhất 1 trứng và 1 tinh trùng. Kỹ thuật được thực hiện thành công đầu tiên vào những năm đầu thập niên 90. Chỉ vài năm sau đó, ICSI đã được triển khai khắp các nơi trên thế giới và cho đến nay đã trở thành một trong những kỹ thuật điều trị phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong quá trình phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm và các kỹ thuật liên quan đã có rất nhiều tiến bộ và kỹ thuật mới đã được đưa vào ứng dụng nhằm mở rộng chỉ định điều trị và gia tăng hiệu quả thành công. Trong đó, kỹ thuật tạo nhiều thay đổi và ảnh hưởng lớn nhất là kỹ thuật ICSI.
Hiệu quả của kỹ thuật ICSI
Theo báo cáo thống kê ở Mỹ và châu Âu, tỉ lệ có thai của ICSI thường cao hơn một ít hoặc tương đương với kỹ thuật TTTON bình thường. Số liệu tại Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ cũng có kết quả tương tự. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng, ngoại trừ những trường hợp dị dạng tinh trùng nặng, thì dù tinh trùng lấy trong tinh dịch, trong mào tinh hay trong tinh hoàn, tỉ lệ có thai đạt được cũng gần tương đương. Hay nói một cách khác, tỉ lệ thành công của ICSI ít phụ thuộc vào chất lượng và nguồn gốc tinh trùng. Như vậy, kỹ thuật ICSI có thể giúp một nam giới có chất lượng tinh trùng kém, thậm chí không có tinh trùng vẫn có khả năng có con như một nam giới có chất lượng tinh trùng tốt.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng ICSI có thể giúp tăng tỉ lệ thụ tinh, tăng số phôi có được, nhờ đó có thể giúp tăng tỉ lệ thành công. Với kỹ thuật TTTON bình thường, một số trường hợp tinh trùng không thể tự thụ tinh noãn do bất thường về thụ tinh, dẫn đến không có phôi để chuyển vào buồng tử cung. Với kỹ thuật ICSI, chúng ta có thể tránh gần như hoàn toàn các trường hợp trên.
Ngoài ra, một số nghiên cứu còn thấy rằng phôi hình thành từ kỹ thuật ICSI, khi trữ lạnh có khả năng sống cao hơn phôi hình thành từ kỹ thuật TTTON bình thường.
Khi nào cần thực hiện ICSI
ICSI được xem là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho các trường hợp vô sinh nam do các nguyên nhân khác nhau như:
Tất cả các dạng của bất thường về số lượng và chức năng tinh trùng: tinh trùng ít, tinh trùng di động kém, tinh trùng dị dạng nhiều
Vô sinh nam do không có tinh trùng: không có tinh trùng trong tinh dịch, phải lấy tinh trùng bằng phẫu thuật
Ngoài ra ICSI hiện nay là chỉ định thường qui cho các trường hợp như:
Bất thường thụ tinh: tinh trùng của chồng và trứng của người vợ bình thường, nhưng không thụ tinh được hoặc tỉ lệ thụ tinh thấp; hoặc nghi ngờ có bất thường về thụ tinh giữa trứng và tinh trùng.
Vô sinh không rõ nguyên nhân.
Thất bại nhiều lần với TTTON bình thường
Kỹ thuật TTTON cổ điển được thực hiện từ năm 1978, phải đến 14 năm sau đó, đến năm 1992, kỹ thuật ICSI mới thành công trên thế giới. Tuy nhiên, theo các báo cáo gần nhất của 2 khu vực thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhiều nhất trên thế giới là Châu Âu và Mỹ, hiện nay, ICSI là kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất trên thế giới so với các kỹ thuật khác. Điều này cho thấy hiệu quả ứng dụng cao của kỹ thuật ICSI so với kỹ thuật TTTON cổ điển. Tại Bệnh viện Từ Dũ, kỹ thuật ICSI hiện cũng là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được thực hiện nhiều nhất.
Một số các nguy cơ tìm ẩn của kỹ thuật ICSI
Từ khi kỹ thuật ICSI ra đời đến nay, đã có nhiều quan ngại về một số nguy cơ có thể có đối với kỹ thuật ICSI như:
Trứng có thể bị tổn thương khi tiêm tinh trùng và ảnh hưởng đến chất lượng phôi.
Các trường hợp vô sinh nam có thể có nhiễm sắc thể và bệnh lý di truyền cao hơn bình thường. Khoảng 5-10% vô sinh nam do bất thường tinh trùng nặng (mật độ tinh trùng <5 triệu/ml), là có liên quan đến bệnh lý di truyền. Các bất thường này, có thể truyền sang con.
Tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra do kỹ thuật ICSI có thể tăng nhẹ, đặc biệt ở các trường hợp tinh trùng yếu nặng, dị dạng. (Ở dân số bình thường, tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể thường khoảng 1-2%).
Các trẻ sinh ra đầu tiên từ kỹ thuật ICSI trên thế giới đến nay đã trên 10 tuổi (từ năm 1992). Nhiều khảo sát về sự an toàn của kỹ thuật ICSI đã được thực hiện, có những khảo sát lớn thực hiện trên hàng ngàn trẻ, hầu hết đều cho thấy đây là một kỹ thuật tương đối an toàn, không làm tăng tỉ lệ dị tật bẩm sinh. Các nghiên cứu gần đây đều cho thấy các bé sinh ra từ kỹ thuật ICSI phát triển bình thường. Các nghiên cứu về sự phát triển của các bé này vẫn đang được tiếp tục tại nhiều trung tâm trên thế giới.
Kết luận
ICSI hiện nay là kỹ thuật phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Kỹ thuật này giúp điều trị cho hầu hết các trường hợp vô sinh do nam giới, ngoài ra còn góp phần tăng tỉ lệ thành công khi dùng điều trị cho vô sinh do nguyên nhân khác. Hiện nay, theo số liệu thống kê trên toàn thế giới, ICSI được xem là một kỹ thuật điều trị an toàn.

Tháng 10/2005

Từ khóa:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK