Tin tức
on Tuesday 24-08-2021 6:48pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình
Hiện nay, chọn lựa phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất vẫn là một thách thức của ngành hỗ trợ sinh sản. Ngày càng nhiều phương pháp được phát triển nhằm hỗ trợ đánh giá chất lượng phôi như chọn lựa phôi qua động học hình thái, đánh giá các hoạt động chuyển hóa, nuôi phôi dài ngày, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ xâm lấn và không xâm lấn. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế khi hơn 50% phôi chuyển thất bại làm tổ. Do đó, các phương pháp mới trong việc đánh giá tiềm năng phát triển của phôi vẫn đang được nghiên cứu và phát triển nhằm cải thiện hiệu quả trong việc chọn lựa phôi. Một số nghiên cứu đã đề xuất việc đánh giá hình thái tiền nhân (PN) tại thời điểm 16 – 18 giờ sau thụ tinh có thể cung cấp thêm thông tin về khả năng sống của phôi. Tiền nhân cái sẽ xuất hiện gần thể cực thứ hai, trong khi tiền nhân đực sẽ xuất hiện gần trung tâm của tế bào chất. Sau khi hình thành, tiền nhân cái sẽ di chuyển về phía tiền nhân đực cho đến khi chúng ở vị trí gần nhau. Các hạch nhân (NPBs) được phân bổ ngẫu nhiên trong tiền nhân, xuất hiện ngay sau khi thụ tinh và tồn tại trong suốt chu kỳ tế bào đầu tiên. NPBs là nơi tiền RNA ribosome (rRNA) được tổng hợp, các rRNA cần thiết cho quá trình dịch mã khi bộ gen phôi được kích hoạt hoàn toàn. Sự phân cực của NPBs kiểm soát sự hình thành trục phân bào của phôi. Những thay đổi bất thường liên quan đến sự phân cực của NPBs có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tử bao gồm sự thất bại thụ tinh và sự phân chia không đồng đều.
Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau đã được sử dụng trong việc đánh giá khả năng phát triển của hợp tử bao gồm việc đánh giá kích thước PN, vị trí và sự sắp xếp NPB. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chứng minh hệ thống điểm PN có tương quan với sự phát triển của phôi, mang thai và làm tổ, nhưng vẫn có những bằng chứng mâu thuẫn về mối quan hệ giữa hình thái hợp tử và kết quả IVF. Một trong những hạn chế chính của các nghiên cứu này là việc sử dụng các hệ thống phân loại hợp tử khác nhau. Vì vậy vào năm 2011, sự đồng thuận của ESHRE-Alpha đã xác định ba loại PN để tiêu chuẩn hóa việc đánh giá hợp tử. Các hợp tử sẽ được phân thành ba loại chính là đối xứng, không đối xứng và bất thường. Hợp tử đối xứng bao gồm các hợp tử có hai thể cực, hai tiền nhân đặt cạnh nhau ở trung tâm, bằng nhau về kích thước và số lượng các NPBs và các NPBs được sắp xếp gần màng tế bào cạnh nhau của hai PN. Tất cả các hợp tử không thuộc hình thái lý tưởng sẽ thuộc vào nhóm không đối xứng. Nhóm bất thường bao gồm các hợp tử không hoặc chỉ có một NPB. Và cho đến nay chưa có nghiên cứu nào xác minh tính hiệu quả của việc phân loại như vậy.
Vì vậy, nục đích của nghiên cứu hồi cứu này là đánh giá hệ thống điểm đồng thuận ESHRE về phân loại PN có thể là một tiêu chí bổ sung để cải thiện dự đoán tiềm năng làm tổ của phôi hay không.
Thiết kế nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ quan sát hồi cứu. Nghiên cứu bao gồm 3004 hợp tử từ 555 phụ nữ đã trải qua điều trị ICSI từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 6 năm 2019. Hợp tử được phân loại theo điểm 1: đối xứng, 2: không đối xứng, 3: bất thường. Các so sánh về tuổi, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ phôi nang, chất lượng phôi, tỷ lệ làm tổ giữa các nhóm được đánh giá bằng kiểm định chi bình phương hoặc kiểm định Kruskal-Wallis. Các yếu tố dự báo tiềm năng làm tổ được kiểm tra trong phân tích đơn biến bằng cách sử dụng các phương trình ước tính tổng quát có tính đến mối tương quan giữa các phôi của cùng một bệnh nhân. Sau đó, các biến có khả năng liên quan đến sự làm tổ (P <0,05) được đưa vào một phân tích đa biến để tính toán tỷ lệ chênh lệch đã điều chỉnh (OR) và khoảng tin cậy 95% (CI)
Kết quả: Trong số 3004 hợp tử được tham gia vào nghiên cứu có 1163 phôi được chuyển vào tử cung ở giai đoạn phôi phân chia, 1490 phôi được nuôi cấy đến ngày thứ 5-7, 232 phôi ngừng phát triển vào ngày 3, 9 phôi được trữ lạnh vào ngày 2-3; 110 hợp tử không phân chia. Trong số 1490 phôi được nuôi cấy đến ngày 5-7, 516 trở thành phôi nang: 123 phôi ngày 5 được chuyển vào tử cung và 393 phôi được trữ lạnh (226 vào ngày 5, 156 vào ngày 6 và 11 vào ngày 7). Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ phôi nang và hình thái phôi giữa ba nhóm điểm PN. Điểm PN cũng không tương quan đến tỷ lệ hình thành phôi tốt. Tuy nhiên, nhóm điểm 1 cho thấy tỷ lệ làm tổ cao hơn so với điểm 2-3 (OR 1,83; KTC 95% 1,34-2,50, P = 0,0001). Điểm PN vẫn dự đoán khả năng làm tổ ở những phôi tốt (OR 1,68; KTC 95% 1,17-2,42, P = 0,005).
Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên về mối tương quan giữa hình thái PN và khả năng làm tổ của phôi áp dụng hệ thống điểm PN do ESHRE đề xuất. Nghiên cứu đã chứng minh đồng thuận này có thể được đưa vào quy trình thường quy trong đánh giá phôi nhằm tăng cơ hội mang thai của bệnh nhân mặc dù cần thêm những nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên với thiết kế chặt chẽ hơn để chứng minh tiềm năng dự đoán của hệ thống đồng thuận ESHRE.
Nguồn: Stigliani, Sara, Claudia Massarotti, Francesca Bovis, Ida Casciano, Fausta Sozzi, Valentino Remorgida, Angelo Cagnacci, Paola Anserini, and Paola Scaruffi. "Pronuclear score improves prediction of embryo implantation success in ICSI cycles." BMC pregnancy and childbirth 21, no. 1 (2021): 1-9.
Hiện nay, chọn lựa phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất vẫn là một thách thức của ngành hỗ trợ sinh sản. Ngày càng nhiều phương pháp được phát triển nhằm hỗ trợ đánh giá chất lượng phôi như chọn lựa phôi qua động học hình thái, đánh giá các hoạt động chuyển hóa, nuôi phôi dài ngày, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ xâm lấn và không xâm lấn. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế khi hơn 50% phôi chuyển thất bại làm tổ. Do đó, các phương pháp mới trong việc đánh giá tiềm năng phát triển của phôi vẫn đang được nghiên cứu và phát triển nhằm cải thiện hiệu quả trong việc chọn lựa phôi. Một số nghiên cứu đã đề xuất việc đánh giá hình thái tiền nhân (PN) tại thời điểm 16 – 18 giờ sau thụ tinh có thể cung cấp thêm thông tin về khả năng sống của phôi. Tiền nhân cái sẽ xuất hiện gần thể cực thứ hai, trong khi tiền nhân đực sẽ xuất hiện gần trung tâm của tế bào chất. Sau khi hình thành, tiền nhân cái sẽ di chuyển về phía tiền nhân đực cho đến khi chúng ở vị trí gần nhau. Các hạch nhân (NPBs) được phân bổ ngẫu nhiên trong tiền nhân, xuất hiện ngay sau khi thụ tinh và tồn tại trong suốt chu kỳ tế bào đầu tiên. NPBs là nơi tiền RNA ribosome (rRNA) được tổng hợp, các rRNA cần thiết cho quá trình dịch mã khi bộ gen phôi được kích hoạt hoàn toàn. Sự phân cực của NPBs kiểm soát sự hình thành trục phân bào của phôi. Những thay đổi bất thường liên quan đến sự phân cực của NPBs có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tử bao gồm sự thất bại thụ tinh và sự phân chia không đồng đều.
Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau đã được sử dụng trong việc đánh giá khả năng phát triển của hợp tử bao gồm việc đánh giá kích thước PN, vị trí và sự sắp xếp NPB. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chứng minh hệ thống điểm PN có tương quan với sự phát triển của phôi, mang thai và làm tổ, nhưng vẫn có những bằng chứng mâu thuẫn về mối quan hệ giữa hình thái hợp tử và kết quả IVF. Một trong những hạn chế chính của các nghiên cứu này là việc sử dụng các hệ thống phân loại hợp tử khác nhau. Vì vậy vào năm 2011, sự đồng thuận của ESHRE-Alpha đã xác định ba loại PN để tiêu chuẩn hóa việc đánh giá hợp tử. Các hợp tử sẽ được phân thành ba loại chính là đối xứng, không đối xứng và bất thường. Hợp tử đối xứng bao gồm các hợp tử có hai thể cực, hai tiền nhân đặt cạnh nhau ở trung tâm, bằng nhau về kích thước và số lượng các NPBs và các NPBs được sắp xếp gần màng tế bào cạnh nhau của hai PN. Tất cả các hợp tử không thuộc hình thái lý tưởng sẽ thuộc vào nhóm không đối xứng. Nhóm bất thường bao gồm các hợp tử không hoặc chỉ có một NPB. Và cho đến nay chưa có nghiên cứu nào xác minh tính hiệu quả của việc phân loại như vậy.
Vì vậy, nục đích của nghiên cứu hồi cứu này là đánh giá hệ thống điểm đồng thuận ESHRE về phân loại PN có thể là một tiêu chí bổ sung để cải thiện dự đoán tiềm năng làm tổ của phôi hay không.
Thiết kế nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ quan sát hồi cứu. Nghiên cứu bao gồm 3004 hợp tử từ 555 phụ nữ đã trải qua điều trị ICSI từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 6 năm 2019. Hợp tử được phân loại theo điểm 1: đối xứng, 2: không đối xứng, 3: bất thường. Các so sánh về tuổi, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ phôi nang, chất lượng phôi, tỷ lệ làm tổ giữa các nhóm được đánh giá bằng kiểm định chi bình phương hoặc kiểm định Kruskal-Wallis. Các yếu tố dự báo tiềm năng làm tổ được kiểm tra trong phân tích đơn biến bằng cách sử dụng các phương trình ước tính tổng quát có tính đến mối tương quan giữa các phôi của cùng một bệnh nhân. Sau đó, các biến có khả năng liên quan đến sự làm tổ (P <0,05) được đưa vào một phân tích đa biến để tính toán tỷ lệ chênh lệch đã điều chỉnh (OR) và khoảng tin cậy 95% (CI)
Kết quả: Trong số 3004 hợp tử được tham gia vào nghiên cứu có 1163 phôi được chuyển vào tử cung ở giai đoạn phôi phân chia, 1490 phôi được nuôi cấy đến ngày thứ 5-7, 232 phôi ngừng phát triển vào ngày 3, 9 phôi được trữ lạnh vào ngày 2-3; 110 hợp tử không phân chia. Trong số 1490 phôi được nuôi cấy đến ngày 5-7, 516 trở thành phôi nang: 123 phôi ngày 5 được chuyển vào tử cung và 393 phôi được trữ lạnh (226 vào ngày 5, 156 vào ngày 6 và 11 vào ngày 7). Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ phôi nang và hình thái phôi giữa ba nhóm điểm PN. Điểm PN cũng không tương quan đến tỷ lệ hình thành phôi tốt. Tuy nhiên, nhóm điểm 1 cho thấy tỷ lệ làm tổ cao hơn so với điểm 2-3 (OR 1,83; KTC 95% 1,34-2,50, P = 0,0001). Điểm PN vẫn dự đoán khả năng làm tổ ở những phôi tốt (OR 1,68; KTC 95% 1,17-2,42, P = 0,005).
Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên về mối tương quan giữa hình thái PN và khả năng làm tổ của phôi áp dụng hệ thống điểm PN do ESHRE đề xuất. Nghiên cứu đã chứng minh đồng thuận này có thể được đưa vào quy trình thường quy trong đánh giá phôi nhằm tăng cơ hội mang thai của bệnh nhân mặc dù cần thêm những nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên với thiết kế chặt chẽ hơn để chứng minh tiềm năng dự đoán của hệ thống đồng thuận ESHRE.
Nguồn: Stigliani, Sara, Claudia Massarotti, Francesca Bovis, Ida Casciano, Fausta Sozzi, Valentino Remorgida, Angelo Cagnacci, Paola Anserini, and Paola Scaruffi. "Pronuclear score improves prediction of embryo implantation success in ICSI cycles." BMC pregnancy and childbirth 21, no. 1 (2021): 1-9.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Cơ chế cố định các hạt vỏ ở vùng rìa màng bào tương noãn trước khi xuất bào để ngăn sự đa thụ tinh - Ngày đăng: 24-08-2021
ICSI tạo ra nhiều phôi nang hữu dụng hơn IVF – các kết quả từ một nghiên cứu chia noãn và định nghĩa một KPI mới - Ngày đăng: 24-08-2021
Có nên tiếp tục chuyển phôi ở giai đoạn phân chia? - Ngày đăng: 20-08-2021
Mối quan hệ giữa kích thước nang noãn và khả năng phát triển của noãn khi kích thích buồng trứng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 17-08-2021
Điểm số động học hình thái phôi có liên quan với các dấu ấn sinh học cho tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi - Ngày đăng: 17-08-2021
Phân tích kết quả IVF/ICSI ở phụ nữ hiếm muộn có tiền căn ung thư tuyến giáp: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 14-08-2021
Kết quả thai ở lần đầu tiên điều trị thụ tinh trong ống nghiệm ở nhóm phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện trên 7678 bệnh nhân - Ngày đăng: 14-08-2021
Thực hiện IVF/ICSI nhiều lần có thể bù đắp cho sự suy giảm khả năng sinh sản tự nhiên theo tuổi tác hay không? Ước lượng tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn qua nhiều chu kỳ IVF/ICSI ở phụ nữ Trung Quốc lớn tuổi - Ngày đăng: 14-08-2021
Vị trí của phôi trong tử cung trong quy trình chuyển phôi: Mô hình mô phỏng in vitro - Ngày đăng: 14-08-2021
CHỈNH SỬA VẬT LIỆU DI TRUYỀN PHÔI NGƯỜI: HY VỌNG HAY LO LẮNG? - Ngày đăng: 14-08-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK